TaiLieuViet xin giới thiệu Nghị luận về hiện tượng học vẹt, học tủ. Đây là đề nghị luận xã hội hay, được TaiLieuViet sưu tầm và biên soạn. Mời các bạn tham khảo!
Mục Lục
ToggleI. Dàn ý nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt
1. Dàn ý nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 1
1. Mở đoạn
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Hiện tượng học tủ, học vẹt của học sinh hiện nay.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào khả năng của mình.
2. Thân đoạn
a. Thực trạng
Tình trạng lười học của học sinh ngày nay càng ngày càng phổ biến và dễ dàng nhận ra.
Nhiều học sinh có cách học đối phó, học cho có, học để qua mắt thầy cô, để thầy cô không khiển trách.
Bài tập được giao về nhà các em không giải mà chỉ đi chép hoặc làm qua loa, gian lận trong thi cử…
b. Nguyên nhân
Chủ quan: do ý thức học tập của một số bạn còn kém, các bạn chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học, do bản tính còn ham chơi, muốn học cho nhanh để làm việc khác hoặc muốn được điểm cao mà lười học…
Khách quan: thầy cô cho khối lượng bài tập rất nhiều và khó khiến các bạn không làm kịp nhưng vẫn phải nộp; do bố mẹ kì vọng cao, muốn con em mình học nhiều hơn nữa,…
c. Hậu quả
Chất lượng giáo dục ngày càng đi xuống, các em học sinh không tiếp thu được nhiều kiến thức.
Gây ra những thói quen xấu cho học sinh: ỷ lại, chép bài, gian lận trong thi cử,…
Nền giáo dục ngày càng đi xuống.
d. Giải pháp
Mỗi học sinh cần có tinh thần tự giác trong học tập, cố gắng tìm tòi học hỏi, không dựa dẫm vào người khác, hạn chế tối đa những hành vi không tốt trong học tập và thi cử.
Gia đình không nên bắt em con em mình học tập quá sức hoặc quá đặt nặng thành tích lên con mình.
Nhà trường và các thầy cô giáo cần ra lượng bài tập hợp lí, không quá nhiều đồng thời có những biện pháp nghiêm khắc đối với những trường hợp đối phó trong học tập của học sinh.
3. Kết đoạn
Khái quát lại vấn đề nghị luận: Hiện tượng học tủ, học vẹt của học sinh hiện nay đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân.
2. Dàn ý nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 2
1. Mở đoạn
Dẫn dắt, khái quát thực trạng học đối phó trong xã hội hiện nay. Nêu suy nghĩ, nhận định cá nhân về vấn đề này.
2. Thân đoạn
a. Nêu khái niệm học đối phó là gì?
Cách học qua loa, chiếu lệ nhằm mục đích đối phó sự kiểm tra, rà soát của giáo viên và phụ huynh.
b. Những biểu hiện phổ biến của việc học đối phó:
Thường lo ra, làm việc riêng, không chú ý nghe giảng trong những tiếc học có giáo viên dễ tính.
Quay cóp trong giờ kiểm tra để nâng cao số điểm vì “chưa kịp” học bài.
c. Nguyên nhân của học đối phó:
Học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học.
Giáo viên chưa có biện pháp khơi gợi nhu cầu tìm kiếm, sở hữu kiến thức của học sinh.
Tiết học chưa sinh động khiến học sinh dễ nhàm chán, lo ra.
…
d. Nêu những tác hại của việc học đối phó:
Thành tích đạt được của học sinh chỉ mang tính đại khái, không thực tế.
Kiến thức được lưu giữ một cách qua loa khiến người học chóng quên, không đạt được mục đích học tập, không tích lũy được kiến thức.
Ảnh hưởng nhân phẩm của người học (thường xuyên gian lận trong học tập, thiếu trung thực).
Bị hỏng nhiều kiến thức khiến việc học sau này ngày càng khó khăn.
Không nắm vững kiến thức khiến người học không thể ứng dụng được kiến thức đã học cho công việc, cuộc sống trong tương lai.
Đưa ra lời khuyên, biện pháp để tránh tình trạng học đối phó của học sinh sinh viên:
Nhà trường, phụ huynh nên có biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức học tập giúp học sinh hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc học tập trong định hướng tương lai, nghề nghiệp.
Có các hoạt động bồi dưỡng, phát huy khả năng, hứng thú học tập cho học sinh.
Khiến các bài giảng trở nên sinh động hơn để thu hút học sinh học tập.
…
3. Kết đoạn
Khẳng định lại quan điểm, nhận định về vấn đề học đối phó (vấn đề cần ảnh hưởng nghiêm trọng, cần được quan tâm,…). Rút kinh nghiệm cho bản thân.
II. Văn mẫu Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 1
Học tập là con đường ngắn nhất để chinh phục tri thức. Việc áp dụng phương pháp học tập khoa học và phù hợp là rất quan trọng. Tuy nhiên, một số học sinh hiện nay lại có xu hướng lựa chọn cách học chống đối, hay còn được gọi là học tủ hoặc học vẹt. Học tủ là việc chọn lọc chỉ một phần kiến thức được xem là quan trọng để học. Còn học vẹt là cách học một cách sáo rỗng nhưng không hiểu bản chất kiến thức vừa học. Những người lựa chọn cách học này thường có thái độ học tập không nghiêm túc và không tập trung, chỉ học để đạt được điểm cao mà không quan tâm đến việc hiểu bài và nâng cao kiến thức. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học tủ, học vẹt, trong đó có thể kể đến vấn đề áp lực từ gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này gây ra sự cạnh tranh giữa các học sinh, và nhiều người sẽ bất chấp để đạt được điểm số cao. Bên cạnh đó, một số học sinh không nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục hoặc không hứng thú với việc học tập. Học tủ học vẹt không chỉ dẫn đến kết quả học tập kém mà còn gây ra những hậu quả tiêu cực trong tương lai, khi mà kiến thức được học bị lãng quên hoặc không sử dụng được trong cuộc sống. Cách học này không giúp học sinh hiểu được ý nghĩa thực sự của kiến thức và bài học, chỉ giúp họ nhớ bài một cách chống đối, qua loa. Học tủ, học vẹt cũng ảnh hưởng đến sự sáng tạo và khả năng tư duy của học sinh. Không chỉ vậy, phương pháp học này còn làm tiêu tốn thời gian và công sức, thậm chí có thể rơi vào tình trạng “tủ đè” hoặc “lệch tủ”. Lựa chọn cho bản thân một phương pháp học tập hiệu quả sẽ đưa chúng ta tới thành công bằng con đường ngắn và nhanh nhất. Chính vì vậy, để có được phương pháp học tập hiệu quả chúng ta cần có kế hoạch, mục tiêu và phấn đấu thực hiện.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 2
Học là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài đòi hỏi người học có sự cố gắng, chủ động trong việc lĩnh hội. Tuy nhiên có một thực trạng đáng buồn hiện nay là hiện tượng học tủ, học vẹt ở một bộ phận không nhỏ học sinh. Trước những bài kiểm tra quan trọng, để đạt được điểm cao mà không phải bỏ nhiều công sức ôn tập, nhiều bạn học sinh đã lựa chọn “phương pháp” học tủ. Học tủ, học vẹt hiểu đơn giản là việc học tập trung vào một hay một số bài cụ thể, học thuộc một cách máy móc mà không hiểu bản chất của vấn đề. Tuy nhiên, các bạn học sinh lại chưa thấy hết được hậu quả khôn lường của cách học sai lầm này, học tủ, học vẹt có thể tiết kiệm được phần nào thời gian học tập thế nhưng lại gây thiếu hụt nghiêm trọng kiến thức bài học. Việc học tủ dễ khiến học sinh bỏ qua những đơn vị kiến thức quan trọng của chương trình học dẫn đến sự lúng túng khi gặp phải những bài tập liên quan. Học vẹt lại là cách học sáo rỗng, các bạn có thể học thuộc từng chữ trong bài học nhưng lại không hiểu bản chất vấn đề, khi gặp những câu hỏi vận dụng, liên hệ thì lại không thể áp dụng để giải quyết. Học tủ, học vẹt còn làm cho học sinh trở nên lười biếng, thụ động trong việc học, chưa kể việc học tủ, học vẹt còn làm nảy sinh tâm lí lo lắng, căng thẳng khi làm bài. Nếu may mắn “trúng tủ” thì không sao nhưng nỡ “lệch tủ” không chỉ gây ra tâm lí lo lắng, sợ hãi mà còn gây ảnh hưởng đến kết quả của bài thi. Để làm chủ việc học, nâng cao hiệu quả học tập, mỗi học sinh chúng ta cần chủ động trong việc học. Cần kết hợp việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp với việc lắng nghe bài giảng trên lớp và làm bài tập khi về nhà. Nếu gặp phải những bài tập khó, những vấn đề chưa hiểu, chúng ta có thể nhờ thầy cô giúp đỡ hoặc tổ chức làm việc nhóm. Trong học tập cần loại bỏ thói quen học tủ, học vẹt, thay vào đó chúng ta duy trì thói quen học tập chủ động, tích cực cùng sự nỗ lực, chăm chỉ, làm được như vậy chắn sẽ gặt hái được những thành quả xứng đáng.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 3
Mỗi chúng ta là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì thế việc học tập của ta có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nước nhà. Tuy nhiên, hiện nay hiện tượng học sinh học tủ, học vẹt đang diễn ra ngày càng nhiều. Ta không khó để bắt gặp các bạn học sinh chép sách giải để hoàn thiện bài tập về nhà. Lại có nhiều trường hợp các em học sinh không chủ động học tập, ghi nhớ kiến thức mà học ngẫu nhiên một vài bài để chuẩn bị cho bài thi, bài kiểm tra,… Nhiều bạn chỉ biết chép bài trong sách vở, bài giảng của thầy cô không cần hiểu nó nói gì. Lúc mới học có thể thuộc lòng nhưng rồi lại quên ngay và khi cần thì chữ nghĩa cũng không cánh mà bay. Nguyên nhân của hiện tượng này đầu tiên phải kể đến là do ý thức chủ quan của các bạn học sinh: ý thức học tập của một số bạn còn kém, các bạn chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học mà chỉ quan tâm đến kết quả thi. Bên cạnh đó còn là do bản tính còn ham chơi, muốn học cho nhanh để làm việc khác hoặc muốn được điểm cao mà lười học của nhiều học sinh. Nguyên nhân khách quan không thể không nhắc đến là do các thầy cô cho khối lượng bài tập rất nhiều và khó khiến các bạn không làm kịp nhưng vẫn phải nộp; bố mẹ kì vọng cao, muốn con mình học nhiều hơn nữa, đạt nhiều thành tích hơn nữa… Để cải thiện tình trạng này, trước hết, mỗi học sinh cần có tinh thần tự giác trong học tập, cố gắng tìm tòi học hỏi, không dựa dẫm vào người khác, hạn chế tối đa những hành vi không tốt trong học tập và thi cử. Bên cạnh đó, gia đình không nên bắt em con em mình học tập quá sức hoặc quá đặt nặng thành tích lên con mình. Ngoài ra, nhà trường và các thầy cô giáo cần ra lượng bài tập hợp lí, không quá nhiều đồng thời có những biện pháp nghiêm khắc đối với những trường hợp đối phó trong học tập của học sinh. Quãng thời gian học tập ngồi trên ghế nhà trường là khoảng thời gian tốt nhất để trau dồi bản thân, hãy trở thành một người con ngoan trò giỏi, cống hiến nhiều điều tốt đệp cho đất nước ngay từ hôm nay.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 4
Trường học là ngôi nhà thứ hai dạy cho con người nhiều điều hay lẽ phải. Tuy nhiên, hiện nay trong trường học có nhiều hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của các em học sinh, trong đó phải kể đến chính là hiện tượng học tủ, học vẹt. Học tủ là trường hợp các bạn học sinh dự đoán đề thi theo cảm quan của mình rồi học một số ít bài với hi vọng sẽ có bài đó trong bài thi. Học vẹt là cách học hời hợt, học thuộc lòng, không hiểu bản chất của kiến thức mà mình đang nghiên cứu. Học tủ học vẹt là những cách học chưa tốt, gây tiêu cực mà mỗi chúng ta cần loại trừ trong quá trình rèn luyện của mình. Hiện tượng này xuất phát từ chính những người học sinh. Có nhiều bạn lười học nhưng vẫn muốn đạt điểm cao, lại có những người học để phục vụ cho bài kiểm tra chứ không nghiên cứu kĩ lưỡng về bài học của mình. Cách học này dẫn đến hệ quả chính là việc chúng ta không hiểu, không nắm được bản chất của bài học, kiến thức khi trôi qua sẽ để lại lỗ hổng khiến ta khiếm khuyết. Lâu dần dẫn đến thói xấu trong học tập, tạo tác động tiêu cực đến môi trường học tập. Mỗi bạn học sinh cần phải có ý thức tự giác học tập, nghiên cứu kiến thức cho riêng mình, không lười biếng hay bị động. Nguồn kiến thức là vô hạn nhưng tiếp thu và tích lũy như thế nào lại là do ý chí chủ quan của con người. Hãy học tập và trở thành một công dân tốt, cống hiến những điều tốt đẹp cho xã hội và làm cho cuộc sống của chính mình tươi đẹp hơn.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 5
Hiện nay, khi xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cũng là lúc có nhiều vấn đề nổi cộm nổ ra nhận được sự quan tâm của toàn dư luận. Một trong số đó phải kể đến hiện tượng học tủ, học vẹt của học sinh hiện nay.
Vậy thế nào là học tủ, học vẹt? Học tủ là học sinh tự khoanh vùng kiến thức mà các bạn cho là sẽ có trong đề thi để học, không học kĩ, học hết và hiểu vấn đề mình đang học, chỉ chăm chú vào đề thi và kết quả thi. Học vẹt là tình trạng học sinh học đối phó, học cho có, không hiểu bản chất của vấn đề. Học tủ, học vẹt là những thói quen học tập rất xấu mà mỗi chúng ta không nên đi theo. Hiện nay, tình trạng lười học của học sinh ngày nay càng ngày càng phổ biến và dễ dàng nhận ra. Nhiều bạn học sinh có cách học đối phó, học cho có, học để qua mắt thầy cô, để thầy cô không khiển trách. Bài tập được giao về nhà các bạn không giải mà chỉ đi chép hoặc làm qua loa, gian lận trong thi cử…
Nguyên nhân của hiện tượng này đầu tiên phải kể đến là do ý thức chủ quan của các bạn học sinh: ý thức học tập của một số bạn còn kém, các bạn chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học mà chỉ quan tâm đến kết quả thi. Bên cạnh đó còn là do bản tính còn ham chơi, muốn học cho nhanh để làm việc khác hoặc muốn được điểm cao mà lười học của nhiều học sinh. Nguyên nhân khách quan không thể không nhắc đến là do các thầy cô cho khối lượng bài tập rất nhiều và khó khiến các bạn không làm kịp nhưng vẫn phải nộp; bố mẹ kì vọng cao, muốn con mình học nhiều hơn nữa, đạt nhiều thành tích hơn nữa…
Hậu quả của việc học tủ, học vẹt vô cùng nghiêm trọng. Đầu tiên là việc chất lượng giáo dục ngày càng đi xuống, các em học sinh không tiếp thu được nhiều kiến thức. Ngoài ra, nó còn gây ra những thói quen xấu cho học sinh như: ỷ lại, chép bài, gian lận trong thi cử,… Từ đó khiến cho nền giáo dục ngày càng đi xuống.
Để cải thiện tình trạng này, trước hết, mỗi học sinh cần có tinh thần tự giác trong học tập, cố gắng tìm tòi học hỏi, không dựa dẫm vào người khác, hạn chế tối đa những hành vi không tốt trong học tập và thi cử. Bên cạnh đó, gia đình không nên bắt em con em mình học tập quá sức hoặc quá đặt nặng thành tích lên con mình. Ngoài ra, nhà trường và các thầy cô giáo cần ra lượng bài tập hợp lí, không quá nhiều đồng thời có những biện pháp nghiêm khắc đối với những trường hợp đối phó trong học tập của học sinh.
Mỗi người một hành động nhỏ nhưng cùng chung tay với sẽ tạo ra ý nghĩa lớn, lan tỏa được thông điệp lớn lao. Để đẩy lùi hiện tượng học tủ, học vẹt, chúng ta cần chung tay xây dựng một thói quen học tập thật tốt và rèn luyện đạo đức cho bản thân để trở thành một người chủ nhân thực thụ của đất nước.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 6
Học tủ, học vẹt là những cách học đối phó rất phổ biến trong giới học sinh và chúng mang lại những hậu quả không nhỏ. Vậy học tủ, học vẹt là gì? Học tủ là cách học cầu may, đoán đề và chỉ học những phần mình đoán đề sẽ ra. Cách học này mang tính may rủi rất cao và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nhất là khi các bạn học sinh đoán sai đề thi. Học vẹt là học mà không hiểu bài, không nắm rõ kiến thức của bài mà chỉ cố học thuộc lòng từng câu chữ một cách máy móc. Đây là cách học chắc chắn không mang lại kết quả cao trong học tập. Đó là vì khi chúng ta không hiểu bài là lại học nhồi nhét thì ta sẽ mau quên những kiến thức quan trọng. Những người chỉ biết học vẹt, học tủ sẽ không bao giờ thành công trên con đường học vấn. Muốn nắm được kiến thức một cách nhanh chóng và hiệu quả, học sinh phải có cách học đúng đắn. Chúng ta nên chuẩn bị bài trước ở nhà, sau đó vào lớp chăm chú nghe thầy cô giảng bài để hiểu rõ bài hơn. Nếu có gì không hiểu, chúng ta có thể hỏi thầy cô ngay hoặc lập nhóm học tập để cùng thảo luận. Khi về nhà, chúng ta phải siêng năng làm bài tập để vận dụng kiến thức đã học một cách thành thạo. Cách học đúng đắn trên sẽ giúp các bạn học sinh luôn đạt kết quả cao trong học tập và không còn mệt mỏi hay hồi hộp như cách học tủ, học vẹt nữa. Tóm lại, học tủ, học vẹt là những cách học sai lầm mà tất cả các bạn học sinh nên tránh để không phải chịu những hậu quả đáng tiếc về sau.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 7
Sinh thời, Bác Hồ đã từng nói học phải đi đôi với hành. Điều đó đồng nghĩa với việc cách học phải thực sự hiệu quả, nâng cao khả năng nhận thức và tự giác. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng học tủ học vẹt ngày càng lan rộng trong nhà trường và trở thành một vấn nạn phức tạp trong học hành.
Học vẹt là lối học đọc ra rả như cuốc kêu, lặp đi lặp lại nguyên si những bài học có sẵn trong sách vở hoặc do thầy cô cung cấp mà không hiểu mình đang học gì, không nắm được bản chất của vấn đề trong bài học. Học tủ là việc chỉ học một số bài nhất định có khả năng thi hoặc kiểm tra để rồi khi bị “lệch tủ”, tức là việc đề ra không trúng vào những gì đã học thì không thể làm được gì nữa.
Cả hai cách học đều đem lại những hậu quả khó lường khiến kết quả học tập của học sinh ngày càng đi xuống. Học tủ, học vẹt những bài học của thầy cô giảng chính là học mà không hiểu gì, đầu óc rỗng tuếch, kiến thức hạn hẹp, nông cạn. Không hiểu thấu được bài học cho nên khi đề ra hơi khác so với ban đầu, lập tức học sinh sẽ cảm thấy lúng túng không biết làm cách nào để có thể giải quyết vấn đề được đặt ra trong đề bài.
Học tủ, học vẹt là cách học không sử dụng đến suy nghĩ, vì vậy khả năng tư duy, năng lực phát triển phân tích và lí giải vấn đề không được nâng cao. Mục đích của việc học tập là rèn luyện khả năng tư duy tuy nhiên chính vì học tủ học vẹt mà cuối cùng học sinh lại trở nên thụ động, kém phát triển khả năng sáng tạo.
Bị động tiếp thu kiến thức, không hiểu bài khi học nên học sinh dễ có cảm giác chán nản, ít hứng thú khiến hiệu quả học tập không cao. Kết quả yếu kém ảnh hưởng đến tinh thần học sinh hiện tại và việc hổng kiến thức sẽ là một bất lợi cho tương lai sau này. Từ đó, gia đình, xã hội và thậm chí là bản thân cũng đều nghi hoặc và mất niềm tin vào chính khả năng của mình.
Hiện tượng học tủ, học vẹt ngày càng phổ biến trong học sinh ngày nay: nhiều bạn chỉ biết chép bài trong sách vở, bài giảng của thầy cô không cần hiểu nó nói gì mà chỉ biết đọc ra rả và lặp đi lặp lại như một con vẹt. Lúc mới học có thể thuộc lòng nhưng rồi lại quên ngay và khi cần thì chữ nghĩa cũng không cánh mà bay. Chưa kể việc chỉ chăm chăm học một vài bài sẽ gây ra cảm giác bất an khi đi thi bởi lẽ chỉ cần lệch tủ là tất cả mọi thứ đều tan biến.
Tình trạng này diễn ra ngày một phổ biến cũng đều có nguyên nhân của nó. Nhiều người có thói quen ỷ lại, không chịu suy nghĩ để phát triển khả năng sáng tạo. Thêm vào đó là bệnh thành tích trong học tập buộc họ phải học tủ, học vẹt để tạo cảm giác an tâm nhờ vào những gì thầy cô đã viết. Xác định sai mục đích chính của việc học đó là chỉ biết lấy thành tích mà không biết rằng mục đích chính của việc học là phải mở mang kiến thức để sau này áp dụng vào thực tế cuộc sống khiến nạn học tủ, học vẹt ngày càng lan rộng.
Vì vậy, khi học ta phải vừa học vừa suy nghĩ, đặc biệt trước khi học thuộc câu chữ phải hiểu vấn đề, tránh sa vào việc lặp đi lặp lại. Xác định đúng mục đích của việc học: học để làm người, để mở mang kiến thức chứ không phải học để lấy thành tích phù phiếm là cách mà một học sinh nên làm.
Việc học tập xét đến cùng cũng đều để phục vụ cho tương lai. Hãy dùng phương pháp học thật đúng đắn để những kiến thức ta có được trên ghế nhà trường có thể giúp ích được cho chính cuộc sống của ta.
Nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt – Mẫu 8
Mỗi học sinh muốn trở thành một công dân có ích, một người đóng góp cho xã hội, một người thành công trên cả hai con đường sự nghiệp và thành người thì chỉ có một con đường duy nhất là học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận không nhỏ học sinh đang chạy theo những cách học tiêu cực là “học vẹt” và “học tủ” không chỉ đem lại tác hại cho bản thân mà còn cho cả xã hội.
“Học tủ” là cách học chọn lọc những kiến thức mà mình cho rằng sẽ ra trong bài kiểm tra hoặc bài thi. Cách học này mang tính may rủi rất cao và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất là đối với những bạn đoán sai đề mà học sinh hay gọi là “lệch tủ”. “Học vẹt” là cách nói ẩn dụ, ví cách học của học sinh với con vẹt bắt chước, nói nhại lại nhưng không hiểu gì. Khi trả bài thì đọc rất trôi chảy, lưu loát nhưng không nắm được nội dung, học một cách máy móc, thụ động và chỉ cần quên một từ là có thể quên cả bài.
Tuy khái niệm về hai phương pháp học này là khác nhau nhưng nó đều có cùng một nguyên nhân. Trước hết phải kể đến nguyên nhân khách quan từ xã hội. Do mặt trái trong tiến trình phát triển của xã hội, định hướng giáo dục còn chưa thực sự phù hợp. Ba mẹ luôn bắt ép con em mình phải luôn luôn học tập, đạt được những thành tích nhất định. Nếu bị điểm kém thì la rầy, trách mắng khiến cho học sinh không còn tìm thấy niềm hứng thú trong học tập. Họ mang trong mình suy nghĩ “Học cho cha mẹ chứ không học cho mình”. Ba mẹ gây áp lực khiến con em mình luôn phải “oằn” mình để gánh lấy ước mơ lớn lao của họ. Mặt khác do chương trình học quá nặng nề về kiến thức, kiến thức khô khan, cứng nhắc, ít có điều kiện thực hành khiến nhiều học sinh chán nản, học chống đối bằng cách “học tủ”, “học vẹt”. Tuy nhiên vẫn không thể phủ nhận nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính bản thân mỗi học sinh ngay từ đầu đã không có mục đích học rõ ràng dẫn đến lười học, học chưa đúng phương pháp. Một phần khác là do học sinh không có ý thức tự giác, chây lười trong học tập.
Hai cách học trên mang tính đối phó, không thực sự coi trọng việc tiếp thu kiến thức để tích lũy và nâng cao vốn hiểu biết. Vì “học vẹt”, “học tủ” mà không tư duy nên không hiểu, không nắm chắc kiến thức dẫn đến không biết vận dụng vào thực tế. Việc học như thế dẫn đến tốn thời gian, tiền bạc của cha mẹ. Ngoài ra, hai cách học trên phụ thuộc vào sự may mắn nên rất dễ xảy ra may rủi, có thể đem lại kết quả không như mong đợi. Do đó gây ra chán nản, thiếu tự tin vào bản thân. Đồng thời nó cũng tạo một thói quen xấu làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của việc học và trở thành những người không trung thực. Việc “học vẹt”, “học tủ” không chỉ gây hại cho mỗi bản thân học sinh mà còn ảnh hưởng đến xã hội. Thử hỏi xem, trong một đất nước mà học sinh chỉ biết gian dối, học chống đối không có kiến thức thực chất thì đất nước đó phát triển ra sao? Xã hội sẽ mất niềm tin vào ngành giáo dục của đất nước, chất lượng giảm sút, ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập và phát triển.
Vì vậy, việc khắc phục tình trạng “học vẹt”, “học tủ” là vô cùng quan trọng. Trước hết học sinh cần thay đổi lại cách học cho phù hợp với bản thân, hiểu được ý nghĩa của việc học, học cho bản thân mình chứ không phải cho ai khác. Khi học tập nên kết hợp với giải trí để đầu óc được thoải mái, không bị áp lực. Ba mẹ cần thay đổi lại suy nghĩ của mình, không nên ép buộc, con cái mà phải luôn động viên, giúp đỡ con em mình những lúc gặp khó khăn trong học tập. Ngoài ra nhà trường cần thay đổi lại chương trình giáo dục cho phù hợp, tránh nặng về kiến thức mà tạo điều kiện thực hành nhiều hơn. Chỉ có cách “học đi đôi với hành” chúng ta mới tránh được cách “học vẹt”, “học tủ” tai hại kia.
“Giáo dục là chìa khoá của tương lai”. Vì vậy học sinh cần có phương pháp học tập, rèn luyện đúng đắn để giáo dục có thể dẫn mỗi người bước đến cánh cửa thành công. Loại trừ phương pháp học tập “học vẹt” và “học tủ”, học sinh sẽ có kiến thức đầy đủ, hành trang cần thiết để bước vào đời, góp phần xây dựng quê hương thêm giàu đẹp.
—————————————
Trên đây TaiLieuViet đã chia sẻ tới các bạn Viết đoạn văn nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt. Để làm được bài văn này, các bạn phải lí giải khái niệm, biểu hiện, nguyên nhân tạo ra nó, đồng thời đề xuất những giải pháp tích cực đẩy lùi hiện tượng này. Chúc các bạn học tốt.
Ngoài Viết đoạn văn nghị luận về hiện tượng học tủ, học vẹt, mời các bạn học sinh tham khảo thêm văn mẫu lớp 9, Soạn văn 9, soạn bài 9 để học tốt Văn 9 hơn nhé.
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)