tailieuviet.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Mục Lục
ToggleDàn ý 1 Phân tích khổ 1 bài Mùa xuân nho nhỏ
1. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Thanh Hải (1930 – 1980) là nhà thơ hiện đại Việt Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ hay viết về mùa xuân, về khát vọng cống hiến cho đời của nhà thơ.
– Dẫn dắt, giới thiệu khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
* Khái quát về bài thơ:
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1980, trong lúc nhà thơ đang ốm nặng và phải điều trị ở bệnh viện Bạch Mai, tức khoảng một tháng trước khi ông qua đời.
- Giá trị nội dung: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
* Luận điểm 1: Vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên xứ Huế.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
– Những tín hiệu của mùa xuân:
- “dòng sông xanh”
- “bông hoa tím biếc”
- “con chim chiền chiện”
- “hót vang trời” -> sự cao rộng của bầu trời
-> Bức tranh thiên nhiên mùa xuân với âm thanh, màu sắc hài hòa, sống động: Không gian cao rộng của trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế, âm thanh rộn rã tưng bừng của con chim chiền chiện.
=> Bức tranh mùa xuân thiên nhiên đa chiều được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc.
* Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả khi bắt gặp vẻ đẹp của mùa xuân.
- “mọc”: đột ngột xuất hiện -> gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, niềm vui hân hoan đón chào mùa xuân đến.
- Thán từ “gọi”, “ơi”, “chi”: cảm xúc dâng tràn của nhà thơ khi bắt gặp vẻ đẹp của mùa xuân.
- “ơi” -> tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim.
- “Giọt long lanh”: có thể là giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc.
-> Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác (hành động “hứng”)
- “tôi hứng” -> động tác trữ tình thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân khi đón nhận vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên đất trời.
=> Cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoá vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
- Hình ảnh thơ mộc mạc, bình dị, giàu ý nghĩa biểu tượng
- Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng.
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung khổ thơ.
- Cảm nhận của em về khổ thơ.
Dàn ý 2 Phân tích khổ 1 bài Mùa xuân nho nhỏ
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và khổ thơ đầu tiên.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
Hai câu thơ đầu: Khung cảnh mùa xuân được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như ngọc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương. Bức tranh ấy lại càng đẹp hơn, có “hồn” hơn khi cái màu tím được tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống.
→ Cảnh vật mùa xuân bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng.
Hai câu thơ tiếp: Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Cả bầu không gian tĩnh lặng giờ đây trở nên sôi động, tưng bừng sức sống. Âm thanh tiếng chim hót tưởng chừng như nhỏ bé nhưng trong cái tĩnh lặng, nó như bao quát cả đất trời.
Hai câu thơ cuối: tiếng chim không chỉ ngân vang trên không trung và đất trời mà giờ đây nó đã cô đọng thành giọt, có hình thù, kích thước nhất định, cách chuyển đổi cảm giác này tưởng chừng vô lí nhưng lại rất hợp lí, làm nổi bật khung cảnh mù xuân với dòng sông, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện cùng người thi sĩ khiến cho bức tranh trở nên bình dị mà vẫn tươi đẹp.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Thanh Hải là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sông Hương Núi Ngự đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ trong trẻo mà đằm thắm, suốt đời gắn bó với cách mạng với quê hương đất nước tới hơi thở cuối cùng. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm nổi bật của ông. Đọc bài thơ người đọc rất ấn tượng với khổ thơ đầu của bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
…………………………. . . .
Hót chi mà vang trời”
Tín hiệu mùa xuân đã về được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác: trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên một bông hoa tím biếc. Màu xanh của sông làm nền tô điểm cho màu hoa tím biếc. Động từ “mọc” nằm ở đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú là niềm vui hân hoan đón chào mùa xuân đến. Bông hoa tím biếc mang đặc trưng của xứ Huế thâm trầm, mang đặc trưng của chiếc áo dài Huế. Bông hoa ấy có thể là hoa lục bình hoặc hoa súng mà ta vẫn thường gặp và được cảm nhận qua sự say mê ngắm nhìn của Lê Anh Xuân:
“Hoa lục bình tím cả bờ sông”
(Trở về quê nội)
Sắc xanh, màu tím biếc đã tạo nên bức tranh xuân với những đường nét chấm phá mặn mà đằm thắm. Đó là bức tranh đa chiều mà nhìn vào con người như đọc được điệu hồn quê hương.
Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời trong trẻo. Từ “ơi” nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người.
Ngắm dòng sông ngắm bông hoa đẹp nghe tiếng chim hót nhà thơ bồi hồi sung sướng bất giác đưa tay ra hứng từng giọt âm thanh từng giọt sương sớm hay từng giọt mưa xuân long lanh:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cử chỉ của nhà thơ bình dị mà trân trọng là cử chỉ thể hiện sự xúc động sâu xa. Đó là sự liên tưởng đầy chất thơ qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thính giác thị giác xúc giác đã được huy động để cảm nhận những hình khối thẩm mỹ của âm thanh.
Huế đẹp thơ mộng đã đi vào lòng người đã đi vào thơ ca muôn thuở, mùa xuân xứ Huế đã là đề tài để thi sĩ Hàn Mặc Tử viết nên “mùa xuân chín” cách bài thơ mùa xuân nho nhỏ gần nửa thế kỉ:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trưa tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”
Như vậy, qua khổ thơ đầu của bài thơ Thanh Hải đã gợi lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào mùa xuân. Bức tranh ấy có bông hoa màu tím, có tiếng chim hát vang trời. Đưa đến cho người đọc cảm nhận tinh tế về mùa xuân xứ Huế.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:
“Song song đôi bướm trắng
Phơi phới phấn hoa bay
(Buổi sớm mùa xuân)
Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Truyện Kiều)
Ta rạo rực dõi nhìn cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc:
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
(Đánh đu – Hồ Xuân Hương)
Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của “Huế đẹp và thơ”, quê mẹ thương yêu của thi sĩ Thanh Hải.
Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu “tím biếc” của hoa, bông hoa xuân mới “mọc”., mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bài thơ trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”..
“Bông hoa tím biếc “ mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:
“Hoa lục bình tím cả bờ sông”.
Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non tơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “ tím biếc ” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.
Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”:
“Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
“Ơi ” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: “Chiền chiện hót lúa tốt bời bời “(Tục ngữ). Hai tiếng “hót chi ” rất gợi cảm, là cách nói “dịu ngọt ” của bà con “xứ Huế chúng mình. Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa ta tôi hứng”
Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. “Từng giọt long lanh rơi” cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, “rơi” xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hoà với thiên nhiên, đất trời, tạo vật.
Thơ đích thực là một hữu hình mà mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:
“Mặt trời càng lên tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo trên đầu cỏ
Sương rọi càng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót”…
(“Thăm lúa”- Trần Hữu Thung)
Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.
Một khổ thơ trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” cho em nhiều ấn tượng đẹp.
“Mùa xuân ta xin hát…
Nhịp phách tiền đất Huế”
Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương. Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt” vậy.
Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Giọng thơ của Thanh Hải lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ. Song hành đối xứng, điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3
Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc Mùa xuân nho nhỏ, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc.
Mùa xuân là hoa nở trên nhành mai
Mùa xuân là chim hót trên cành cây
Mùa xuân là ánh mắt em nhìn ai
Thoáng trên mắt môi bao nụ cười…
Mùa xuân, đó có thế gọi là một khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong năm. Nói đến mùa xuân là ta dường như đang nói đến lòng yêu đời đang cuồn cuộn chảy và những mơ ước cháy bỏng của con người trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà từ lâu mùa xuân đã trở thành một đề tài quen thuộc của các nhà thơ. Viết về mùa xuân, thì mỗi thi nhân đều có được những vần thơ thật hay, thật đặc trưng và nhất là đều mang được tính độc đáo riêng của mình, ở đây, ta chỉ nói về hình ảnh của mùa xuân trong bài thơ quen thuộc “Mùa xuân nho nhỏ’’ của nhà thơ Thanh Hải.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời…
Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cánh đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cánh hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…
Video bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu bài mùa xuân nho nhỏ
Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng!
Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:
Ồ !tiếng hát vui say
Con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm
Xuân chao mình bay liệng…
(Tố Hữu)
Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”.
“Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chi có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.
Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Mở đầu khổ thơ, tác giả đã khiến người đọc có cảm giác nôn nao khi mùa xuân sắp đến. Thanh Hải đã vẻ nên bức tranh xuân muôn màu muôn vẻ của “dòng sông xanh”,” bông hoa tím biếc”, cùng với âm thanh của tiếng “chim chiền chiện”, “hót vang trời”. Hình ảnh chú chim chiền chiện báo tin xuân trong bài thơ của Thanh Hải quá đỗi tươi vui và thơ mộng, không kém gì sắc xuân trong Truyện Kiếu của Đại thi Hào Nguyễn Du:
”Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
Chính tiếng hót trong veo những chú chim đại diện cho mùa xuân bay lượn rợp trời đã khiến cho lòng người cũng trở nên phơi phới, rạo rực. Từ ngữ cảm thán “ơi” của tác giả làm người đọc cảm thấy như Thanh Hải đang tha thiết gọi cánh chim ấy đến gần ông hơn nữa, để tác giả có thể tận hưởng trọn niềm vui trong những ngày xứ Huế và cả Đất nước sắp vào xuân.
Mùa xuân yên vui, mùa xuân của hòa bình, mùa xuân khởi đầu cho sự sống mới của nhân dân, của Đất nước. Đồng thời, câu hỏi cảm thán của nha thơ dành cho chú chim cũng khiến người nghe cảm thấy thật xúc động, nhưng cũng thật thú vị “Hót chi mà vang trời”.
Có lẽ, trong lòng tác giả cũng đang nôn nao và cảm thấy phấn khích với tiếng chim thánh thót, tha thiết và tươi vui ấy. Câu thơ như tiếng reo vui đầy thích thú của tác giả, tưởng chừng như ông cũng đang hòa mình mà nói cười vùng với cánh chim bay trên bầu trời cao rộng kia. Hình ảnh chú chim chiền chiện dễ thương, trong trẻo ấy cũng xuất hiện trong bài thơ Con chim chiền chiện của nhà thơ Huy Cận:
Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Tác giả Thanh Hải đã cảm nhận trọn vẹn hương sắc của mùa xuân bằng tất cả tâm hồn và sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, của đời người. Nếu như tác giả háo hức nhìn cánh chim bay trên bầu trời cao, thấy bông hoa tím trên dòng sông xanh, thì bây giờ lại dùng các giác quan để đón từng “giọt” sương sớm đang “long lanh rơi” xuống thật tinh khiết và tràn đầy nhựa sống.
“Tôi đưa tay tôi hứng”- cử chỉ tuy bình dị của nhà thơ nhưng lại bật lên mọi giác quan, gợi cảm đến lạ. Đó chính là nét đặc sắc trong thơ của Thanh Hải với tài hoa chuyển đổi từ thính giác và thị giác sang xúc giác. Chỉ bằng những lời thơ giản đơn, từ ngữ dung dị, mà tác giả đã vẽ lên một khung cảnh xuân với đầy đủ sắc thái tuyệt vời và chân thật nhất.
Hai từ “tôi hứng” đã thể hiện sự trân trọng và toát lên cái tôi trữ tình của tác giả trước hình ảnh mùa xuân rạng rỡ, đầy đủ sắc màu và âm thanh của xứ Huế mộng mơ, nơi đã đi vào những bài thơ và những khúc ca muôn thuở.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5
Mùa xuân, mùa của vạn vật, mùa của sự sinh sôi nảy nở muôn loài. Chính bởi vẻ đẹp với những nét riêng biệt mà mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho rất nhiều thi nhân. Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình đã có những vần thơ thật táo bạo về mùa xuân qua con mắt của “kẻ si tình”:
“…Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,…”
Không táo bạo như Xuân Diệu, Thanh Hải góp một tiếng thơ xuân vào khu vườn thơ ca hiện đại với thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” chan chứa cảm xúc của một con người đang tận hưởng những điều tuyệt vời nhất của mùa xuân.Nổi bật trong bài thơ là khổ đầu mang rất nhiều ý nghĩa.
“Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ. Lẽ ra phải là:
“Một bông hoa tím biếc
Mọc giữa dòng sông xanh”
Việc đảo ngữ có tác dụng giúp câu thơ thêm phần đặc biệt, ấn tượng. Hai câu thơ gợi cho ta thấy với không gian mênh mông trời nước, giữa dòng sông với làn nước trong xanh, bỗng nhiên mọc lên một bông hoa. Bông hoa ấy có màu sắc tím biếc. Tuy không phải là sắc màu đỏ rực như đỏ, xanh ngắt mà là màu tím biếc. Màu tím làm nên sự thơ mộng, nhẹ nhàng, làm nên sắc xuân. Đó là vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong mà cũng rất đỗi mộng mơ. Đó là màu tím của hoa, của thiên nhiên hay chính là sự tượng trưng cho xứ Huế thơ mộng.
Trên nền xanh của dòng sông, màu hoa tím biếc, tưởng chừng như bức họa ấy tĩnh lại. Nhưng ngay sau đó là sự xuất hiện của tiếng động:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Trên bức tranh ấy có tiếng chim hót vang trời. Với thán từ gọi đáp “Ơi” mang đến sự gần gũi, đậm ngôn ngữ Huế. Ngôn ngữ ấy mang đến sự nhẹ nhàng, tình cảm và có nét vô cùng đáng yêu. Tiếng chim hót làm cho bức tranh chuyển trạng thái từ tĩnh sang động. Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là một nét đẹp đằm thắm, nhẹ nhàng, mơn man, trong sáng và đầy tinh khôi. Tất cả đều đang ở độ tràn trề sức sống.
Bài giảng: Mùa xuân nho nhỏ
Trước vẻ đẹp thiên nhiên ấy, tác giả không khỏi bộc lộ rõ nét cảm xúc của bản thân:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Giọt long lanh” ở đây được hiểu với rất nhiều nghĩa khác nhau. Đó có thể là giọt sương trong buổi sớm ban mai, giọt mưa còn vương lại trên mái hiên hè sau mỗi trận mưa rả rích đêm khuya hay đó cũng có thể là giọt mang ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc, cho sức sống tràn đầy. Với sự chuyển đổi cảm giác linh hoạt trong câu thơ đã đem lại sự thú vị cho câu thơ. Câu thơ cuối của đoạn đầu bài thơ lại diễn tả rõ nét hơn cảm giác ấy: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Động từ “hứng” gợi cho ta thấy sự trân trọng. Sự trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời.
Có một nhà phê bình đã từng viết về “Mùa xuân nho nhỏ” giống như “Một tác phẩm kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Chính tình yêu thiên nhiên da diết cùng với tinh thần lạc quan, yêu đời của tác giả Thanh Hải đã đem đến một tiếng thơ vô cùng giản dị, mộc mạc mà chan chứa xúc cảm. Không phải một mùa xuân mang sự ảm đạm, u buồn trong “Xuân” của Chế Lan Viên, cũng không phải một “Mưa xuân” của Nguyễn Bính mang đầy sự dịu dàng, nhẹ nhàng của một người con gái như đang ngỏ lời trách hờn với chàng trai hay một “Hồn xuân” của Huy Cận mang hơi thở của tình yêu. Thanh Hải đã góp vào một tiếng thơ riêng, rất riêng, rất Thanh Hải và rất ý nghĩa.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ miêu tả về mùa xuân rất đặc sắc và có ý nghĩa. Đặc biệt trong đoạn đầu tiên của bài thơ càng cho chúng ta thấy được mùa xuân hòa vào trong lòng người đọc rất rõ nét và sâu sắc.
Mùa xuân được xem là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm cho nên nói đến mùa xuân là dường như chúng ta cảm thấy yêu đời hẳn lên, có lẽ chính vì vậy mà mùa xuân trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam
Đoạn đầu bài thơ tác giả đã phác họa lên được một bức tranh xuân trước khung cảnh thiên nhiên của đất trời:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Dòng sông có màu xanh gợi nhắc một hình ảnh của những khúc sông uốn lượn quanh co của dải đất miền Trung. Trên gam màu xanh lơ nổi bật lên hình ảnh một bông hoa tím biếc, không có màu vàng của hoa mai hay là màu đỏ của hoa đào mà chỉ có một bông hoa màu tím hiện lên trước mắt. Cho thấy hình ảnh mang đậm bản sắc của xứ Huế, màu tím là màu đặc trưng của con người và đất trời Huế. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên ở phía đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân của đất trời. Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Một bức tranh đang suy tư bỗng đâu đó vang lên một tiếng chim hót làm sinh động hẳn lên, một con chim chiền chiện mà lại hót được vang cả trời, thực ra khoảng trời ấy chính là khoảng không gian riêng của tác giả, chính vì vậy mà chỉ có tác giả mới cảm nhận được điều đó mà thôi.
Say mê với tiếng chim mà trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện được những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”.
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp bình dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Giọt mưa xuân, giọt nắng hay là giọt sương được tác giả viết là “giọt long lanh”. Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì đây được xem là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim như một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo chỉ người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp đó.
Khi đọc bài mùa xuân nhỏ nhỏ, nhất là ở đoạn đầu tiên, chúng ta như cảm nhận được hơi thở, men rượu của mùa xuân đang lan tỏa cả vào đất trời, hòa vào thiên nhiên. Đây quả là một mùa xuân nho nhỏ mà nhà thơ Thanh Hải đã dành tặng cho đời vào những giây phút cuối của cuộc đời mình.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7
Nói đến đề tài mùa xuân, người yêu văn thơ nước nhà nhớ ngay đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ này được xem như sợi dây nối tiếp mạch cảm xúc của mấy mươi năm về trước. Thanh Hải viết “Mùa xuân nho nhỏ” vào thời điểm sắp kề cận cát bụi nhưng người đọc tìm thấy một tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt, luôn dâng trào ở trái tim tác giả. Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ đã toát lên được điều đó.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Khổ thơ với chỉ bốn câu thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tinh tế tạo nên sự khỏe khoắn, tạo nên sức sống tiềm ẩn, tạo nên sự vươn lên trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.
Điểm nhấn của bức tranh xuân là gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế, một màu rất Huế.
Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. Khung cảnh mùa xuân có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Hót vang trời, đó là thứ thanh âm bay bổng, đằm thắm, dịu dàng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.
Xúc cảm ngây ngất trước khung cảnh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời, lòng người mà say sưa, xốn xang, rộn ràng đến thế.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời. Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác “hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, đó cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.
Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở cuối cùng của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ nhưng màu sắc và âm thanh của sự hồi sinh. Màu tím trong thơ Thanh Hải không trầm mà trở nên tươi, tiếng chim trong thơ Thanh Hải không quá rộn rã mà trong vắt, tròn đầy. Cho đến hơi thở cuối cùng tác giả vẫn có thể cống hiến cho đời, cuộc đời ông cũng chính là một mùa xuân, “Một mùa xuân nho nhỏ / Lặng lẽ dâng cho đời”.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 8
“Thơ ông chân chất,bình dị, đôn hậu và chân thành…Đối với nền thơ chống Mỹ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có nhiều đóng góp”, đó là những lời nhận xét chân thành mà Trần Hữu Tả đã dành cho nhà thơ Thanh Hải. Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng, đi qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuộc đời ông gắn liền với mảnh đất Thừa Thiên – Huế thân yêu kể cả trong những ngày tháng kháng chiến ác liệt liệt nhất. Trong cả đời thơ của mình Thanh Hải đã dành phần lớn để viết những bài thơ ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi cách mạng thể hiện tấm lòng muốn cống hiến hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Và đến những ngày tháng cuối đời khi nằm trên giường bệnh, ông vẫn sáng tác ra những vần thơ thật hay thật tươi đẹp về mùa xuân của thiên nhiên của cuộc đời, bộc lộ sâu sắc tấm lòng tha thiết của nhà thơ với dân tộc, với đất nước. Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ này, qua lăng kính của một người sắp từ giã thế gian người ta vẫn thấy một mùa xuân nơi xứ Huế thân yêu thật rực rỡ, thật trong trẻo và đẹp đẽ.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải có yêu quý mùa xuân không, đương nhiên là có, thế nhưng cái cách yêu của ông khác hẳn với cái vẻ nồng nàn, say đắm, vội vã của Xuân Diệu trong Vội vàng, cũng chẳng giống cái vẻ xanh mát, trong trẻo tràn ngập không gian với nhà thơ “quê mùa” Nguyễn Bính trong Mùa xuân xanh, lại càng xa vời với cái vẻ mơ màng, lãng mạn của nhà thơ “điên” Hàn Mặc Tử trong Mùa xuân chín. Thanh Hải viết Mùa xuân nho nhỏ khi đã sắp bước hết đời người, thế nên cái cách ông nhìn về mùa xuân cũng khác biệt. Đọc khổ thơ đầu ta thấy một mùa xuân lặng lẽ, nhưng lại tràn ngập sức sống với sự hòa phối của những gam màu sắc nét và âm thanh rõ ràng, hòa quyện lại thành một bức tranh hài hòa và vô cùng sống động, mang màu sắc tươi vui rõ rệt gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Trong câu thơ đầu “Mọc giữa dòng sông xanh”, người ta ấn tượng với hai việc, đầu tiên ấy là nghệ thuật đảo ngữ, đảo động từ “mọc” lên trên đầu câu thơ để làm nổi bật động thái của sự vật, mà ở đây đó là bông hoa súng, vươn mình dậy giữa “dòng sông xanh”. Điều ấy đã đem đến cho độc giả cảm xúc về sự trỗi dậy mạnh mẽ của sự sống, của mùa xuân, giữa một không gian yên lành, phẳng lặng. Làm nổi bật vẻ đặc biệt của loài hoa mọc trên mặt nước, chứ không phải trên mặt đất, tựa như một nàng tiên “xuân” vừa gột rửa bụi trần từ năm cũ, để đón một mùa xuân mới trên thế gian. Có thể nói rằng việc đảo ngữ này của tác giả đã đem đến những hiệu ứng mạnh mẽ, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc về cảnh tượng mùa xuân. Thứ hai nữa, hình ảnh “dòng sông xanh” đã mở ra một không gian mùa xuân rất khoáng đạt và rộng lớn, dòng sông ấy tượng trưng cho mặt đất, phẳng lặng và và hiền hòa. Sắc xanh đem đến sự trong trẻo, yên bình, tạo cảm giác thư thái, vui vẻ, tràn ngập sức sống, có cảm tưởng sắc xanh ấy đã lan tận chân trời. Thêm nữa màu xanh của dòng sông không chỉ là màu xanh của riêng mình nó mà đó còn là màu xanh của cây cối xung quanh, là màu xanh của bầu trời bát ngát, thế mới thấy mùa xuân trong thơ Thanh Hải, sâu rộng và tươi đẹp ngần nào.
Trong câu thơ tiếp “Một bông hoa tím biếc”, bông hoa ấy có lẽ là một bông hoa súng, bông hoa trang, hoặc cũng có thể là bông lục bình trôi trong “Hoa lục bình tím cả dòng sông”, chúng đều nổi danh là loài hoa mạnh mẽ kiên cường, là biểu tượng của làng quê Việt Nam, dẫu dập dềnh sóng nước nhưng vẫn giữ riêng cho mình những nét đẹp thân thương. Thêm nữa sắc tím của loài hoa này lại gợi người đọc liên tưởng đến xứ Huế mộng mơ với tà áo tím của những cô gái vùng đất kinh kỳ, nơi mà tác giả đã gắn bó và yêu thương cả cuộc đời. Hai gam màu, một xanh một tím dẫu đều là những gam màu lạnh, thế nhưng khi kết hợp lại với nhau, sắc xanh làm nền, sắc tím trở thành nét chấm phá, tô điểm, gợi ra bức tranh xuân rực rỡ, sống động, đậm vị Huế thương, rất tự nhiên, hài hòa và nền nã dịu dàng.
Bên cạnh bức họa chấm phá với nét thi pháp cổ điển, thì bức tranh xuân của Thanh Hải còn gây ấn tượng với người đọc bằng một tiếng chim lảnh lót vang trời của chú chim chiền chiện. Âm thanh ấy phá tan cái sự tĩnh lặng của cảnh vật, thổi vào không gian cái rạo rực, sôi động và yêu đời, mang đến không khí vui tươi, phấn khởi. Hơn thế nữa tiếng chim chính là đại diện cho bầu trời, nếu trong câu thơ trước chúng ta chỉ có thể mường tượng ra bầu trời thông qua màu xanh biếc của dòng sông, thì ở đây tiếng hót vang của loài chim đã mang đã mang ta đến một không gian rộng rãi và khoáng đạt thật sự đi theo cánh chim bay lượn. Như vậy bức tranh đã đủ cả trời, cả đất, rộng lớn vô cùng, khiến người ta chỉ muốn nhập vào đó mà thỏa sức bay nhảy. “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời” chính là lời cả thán tha thiết của nhà thơ trước sự thay đổi của thiên nhiên, sống dậy trong lòng người những rung cảm mạnh mẽ, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu mùa xuân và cuộc đời sâu nặng. Đọc hai câu thơ ấy người ta chẳng thể nghĩ nổi đó là nỗi lòng của một con người đã bước dần đến cửa tử, bởi tiếng lòng ấy sao tươi vui, sao xúc động và thích thú quá. Như vậy có thể thấy, bức tranh xuân, tiếng chim lảnh lót đã làm sống dậy cả một tâm hồn tưởng héo úa, khai mở trái tim, niềm vui sống, xóa mờ đi những đau đớn của bệnh tật và cái chết đang tới gần.
Trong khung cảnh dịu dàng, nên thơ đặc trưng của xứ Huế mộng mơ ấy, người ta thấy tác giả đã thật sự thăng hoa trong cảm xúc, ông không chỉ cảm nhận mùa xuân bằng mắt, bằng tai, mà thậm chí nhà thơ còn cảm nhận nó bằng xúc giác. Từ lúc nào mà người ta lại hứng được cả màu xuân, và vẻ đẹp của mùa xuân kết thành giọt rơi xuống trao tặng cho người yêu xuân như thế. Từ “long lanh” ấy mang đến cho chúng ta nhiều liên tưởng là giọt sương sớm, giọt mưa phùn, hay là tiếng chim trên trời cao kết lại, là giọt nắng, giọt nước sông xanh, là giọt tình xuân,… Nhưng tất cả đó đều mang dáng dấp và hơi thở của mùa xuân dịu dàng, và chỉ người nghệ sĩ có tấm lòng rộng mở mới có thể đón nhận và thấm đẫm những thứ tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng, để nó thấm đẫm vào hồn người. Cảnh “Tôi đưa tay tôi hứng” chính là thái độ trân trọng, yêu thương, nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời, của mùa xuân bằng tất cả tấm lòng rạo rực, vui sướng. Thanh Hải “hứng” lấy mùa xuân ấy để cảm nhận, để khắc ghi vào lòng, đây là mùa xuân của Huế, mùa xuân của quê hương, mai sau có về đất mẹ ông vẫn mãi mang cả tình xuân của Huế đi theo, trân trọng hết lòng.
Như vậy chỉ bằng khổ thơ đầu trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta đã cảm nhận được bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống, với không khí dịu dàng đằm thắm đậm chất Huế. Bên cạnh đó là tình cảm chân thành, tha thiết của tác giả với mùa xuân của quê hương đất nước, thể hiện tấm lòng sâu nặng với cuộc đời, với Tổ quốc, nơi mà ông dành trọn trái tim cống hiến cho đến tận lúc ra đi.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 9
Mùa xuân có thể nói là mùa đẹp nhất trong năm, tượng trưng cho tuổi trẻ, tình yêu và sức sống. Chính vì vậy, con người thường ngất ngây vui sướng trước cảnh sắc giao hòa của đất trời vào độ xuân sang. Cũng nằm trong mạch cảm xúc ấy nhưng với Thanh Hải mùa xuân của thiên nhiên còn gợi mở về mùa xuân của đất nước, về một tương lai tươi sáng phía trước. Mà trong mùa xuân ấy, con người là một nhân tố quan trọng để làm nên mùa xuân của đất nước, cuộc đời. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, Thanh Hải đã nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế mộng mơ. Nó được thể hiện đặc biệt rõ trong khổ thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác vào năm 1980 – nghĩa là trong những ngày tháng cuối đời, trên giường bệnh của ông. Nhưng trong bài thơ không ánh lên niềm u uất của một người sắp từ giã cõi đời mà lại ánh lên một niềm tin yêu, sự lạc quan yêu đời. Có như vậy, mới thấy được hồn thơ của Thanh Hải – luôn lạc quan tin tưởng vào tương lai với một tình yêu nước cháy bỏng trong ông.
Chính vì có những giây phút đối diện với mùa đông lạnh lẽo người ta mới bắt đầu biết quý trọng mùa xuân ấm áp. Mùa xuân đến với những dấu hiệu của thiên nhiên đất trời.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Bức tranh xuân đơn sơ giản dị nhưng lại tươi đẹp vô cùng. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với gam màu xanh chủ đạo. Màu xanh của dòng sông, màu xanh của sự sống hay chính màu xanh báo hiệu mùa xuân đang về. Giữa bức tranh màu xanh ấy, bỗng xuất hiện sắc tím.
Biện pháp đảo ngữ “mọc” được sử dụng trong hai dòng thơ đã tạo ra một hiệu ứng đặc biệt cho bức tranh khiến người đọc có cảm tưởng như vừa tận mắt chứng kiến từ mầm non bừng nở thành bông hoa. Chính vì vậy mà bông hoa ấy nổi bật là sống dậy cả một bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Trong cái tĩnh của dòng sông có cái động của sự sống. Bông hoa ấy có thể là bông hoa có thật cũng có thể là bông hoa trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Sắc tím quen thuộc gợi liên tưởng đến xứ Huế. Sắc xanh, màu tím biếc đã tạo nên bức tranh xuân với những đường nét chấm phá mặn mà đằm thắm. Đó là bức tranh đa chiều mà nhìn vào con người như đọc được điệu hồn quê hương. Thiên nhiên vốn hào phóng ban tặng cho con người tất cả nếu con người biết mở rộng tấm lòng.
Thanh Hải đã điểm thêm vào bức tranh xuân ấy âm thanh của sự sống:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tiếng hót trong veo của chú chim làm xao động cả không gian, đem đến cho mùa xuân niềm vui, sự rạo rực. Nếu trong thơ ca khi nói về mùa xuân thường gắn liền với hình ảnh chim én
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Thì trong thơ của Thanh Hải, ông lại đánh dấu nói bằng tiếng chim chiền chiện. Tiếng chim trong veo vui tươi cũng chính làm âm thanh rộn ràng của sự sống. Từ cảm thán “ơi” hướng về con chim đang bay. Người đọc có cảm giác như nhà thơ đang gọi với theo cánh chim chiền chiện bay cao vút trên bầu trời kia. Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao. Từ “ơi” nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người. Nhà thơ cất tiếng gọi để hỏi “hót chi mà vang trời”, để hỏi tiếng chim sao mà tha thiết thế gợi cho lòng người bao cảm xúc. Câu thơ như một tiếng reo ngỡ ngàng đầy thích thú, tưởng chừng như nhà thơ cũng đang nói cười, vui đùa cùng cánh chim bay. Tiếng chim chiền chiện trong trẻo ấy ta cũng từng bắt gặp trong câu thơ của Huy Cận
Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.
(Con chim chiền chiện – Huy Cận)
Tiếng chim đang vang xa bỗng lại gần. Ngắm dòng sông ngắm bông hoa đẹp nghe tiếng chim hót nhà thơ bồi hồi sung sướng bất giác đưa tay ra hứng từng giọt âm thanh từng giọt sương sớm hay từng giọt mưa xuân long lanh:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng!
Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương long lanh sắc màu rơi xuống tâm hồn rộng lớn của thi nhân để rồi ông đón nhận nó bằng tất cả giác quan của mình. Từ thị giác đến xúc giác, mùa xuân được cảm nhận thật tròn đầy. Con người trân trọng nâng niu từng giọt sương của đất trời. Một chút gì tươi trẻ, hồn nhiên trong hành động “tôi đưa tay tôi hứng”. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác đã được nhà thơ sử dụng tinh tế khắc họa sống động hình ảnh thiên nhiên. Cử chỉ của nhà thơ bình dị mà trân trọng là cử chỉ thể hiện sự xúc động sâu xa. Đó là sự liên tưởng đầy chất thơ qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thính giác thị giác xúc giác đã được huy động để cảm nhận những hình khối thẩm mỹ của âm thanh.Con người cũng trở nên ngây ngất trước khung cảnh ấy. Huế đẹp thơ mộng đã đi vào lòng người đã đi vào thơ ca muôn thuở.
Chỉ bằng vài nét phác họa, Thanh Hải đã vẽ ra cả một khung cảnh thiên nhiên rộng mở. Thanh Hải đã vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, cùng với đó là giọng điệu vui tươi, hào hứng đã vẽ nên vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên và sức sống của mùa xuân đất nước. Thiên nhiên hài hòa có cả dòng sông có cả đất trời, vừa có hình ảnh vừa có âm thanh. Đó là tiếng reo vui, khúc nhạc lòng của thi nhân.
Ta không thấy một Thanh Hải ốm đau, mà là một người nghệ sĩ tràn đầy tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước. Những vần thơ khiến ta càng thêm trân trọng hơn tấm lòng của một người nghệ sĩ lớn, nhân cách lớn. Cảm ơn Thanh Hải. Dù đang ở giai đoạn cuối của cuộc đời, người vẫn để lại cho mình những hình ảnh đẹp của quê hương.Ta vô cùng tự hào về quê hương đất nước, về con người cách mạng. Họ đã sẵn sàng hi sinh tất cả mọi hạnh phúc cá nhân giữa mùa xuân để bảo vệ nền hòa bình độc lập dân tộc.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 10
Thanh Hải sinh năm 1930 và mất vào năm 1980. Ông là nhà thơ hiện đại của Việt Nam trưởng thành trong hai cuộc chiến chống Mỹ và Pháp. Bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ ra đời thể hiện khát vọng cống hiến cho đời của tác giả. Đồng thời, ông còn thông qua đó thể hiện vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, đặc biệt là vào mùa xuân.
Đoạn đầu bài thơ bao gồm 6 câu và mỗi câu 5 chữ đã thể hiện rõ được vẻ đẹp của mùa xuân. Đồng thời, nó còn ẩn dụ về tiếng lòng của tác giả và làm nền cho ước nguyện được thể hiện ở những đoạn sau.
Là nhà thơ tiếp xúc với sông Hương núi Ngự nên tâm hồn của ông rất đằm thắm. Hơn nữa, từ ngữ mà ông sử dụng cũng rất độc đáo và trong trẻo. Nhờ thế, khi đọc đoạn đầu, bạn sẽ cảm thấy vô cùng ấn tượng.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc mọc lên. Hình ảnh dòng sông thể hiện sự rộng lớn của đất trời, thiên nhiên hùng vĩ. Con người như bông hoa mọc lẻ loi thể hiện sức sống mãnh liệt. Mặc dù hình ảnh khá đơn độc nhưng đây lại là bức tranh đẹp của mùa xuân. Bông hoa tím biếc được hồi sinh giữa mùa xuân mang lại điểm sáng cho dòng sông rộng lớn. Bức tranh tả cảnh mùa xuân đầy chân thật. Tác giả không dùng màu sắc khác mà lại chọn màu tím là để mang nét Huế thân thương, đằm thắm vào trong thơ ca.
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Điểm xuyết thêm trên nền bức tranh ấy là tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Chưa dừng lại ở đó, tiếng chim còn là dấu hiệu của mùa xuân đang đến với niềm hân hoan, vui tươi. Ngoài ra, tác giả còn dùng những động từ vô cùng gần gũi như “mọc”, “hót” để diễn tả cảnh vật. Khi đọc vào, chúng ta sẽ cảm nhận được như đã hòa mình cùng khung cảnh ấy.
Đọc hết 4 câu của đoạn đầu, chắc hẳn ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt đẹp của mùa xuân. Mặc dù có rất nhiều hình ảnh nhưng tác giả lại chỉ chọn bông hoa tím và tiếng chim chiền chiện. Đây là hai hình ảnh độc đáo mang đến sự nên thơ cho bức tranh. Ẩn chứa đằng sau bức tranh ấy là lòng yêu quê hương, đất nước. Tình yêu ấy chính là cảm hứng để tác giả sáng tác được những vần thơ như nhạc.
Qua đó, chúng ta sẽ được dịp hiểu rõ hơn về phong cách thơ ca của Thanh Hải. Đặc biệt, mọi người còn được dịp chiêm ngưỡng, cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên bình dị, mộc mạc. Và cuối cùng đó là tình yêu quê hương và cả ước nguyện muốn cống hiến cho mùa xuân của đất trời.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 11
Thanh Hải là một trong những nhà thơ Việt Nam trải qua nhiều biến động của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Phong cách sáng tác của ông chủ yếu viết về những người lính, cuộc đời với tâm trạng yêu đời, yêu người, yêu Tổ Quốc. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là một trong những tập thơ nổi tiếng nhất mà ông để lại cho đời. Ngay từ khổ thơ thứ nhất, ta đã cảm nhận được sự nhiệt huyết và sức sống mà ông muốn đóng góp cho đời, cho nhân dân.
Nhà thơ Thanh Hải sinh năm 1930, mất năm 1980. Ông là một trong những nhà thơ lớn từng trải qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Cả cuộc đời ông luôn muốn dốc hết sức trẻ của mình cho đất nước và nhân dân. Đến khi 50 tuổi, ông lâm bạo bệnh, phải nằm điều trị ở bệnh viện Bạch Mai, Thanh Hải đã sáng tác tập thơ Mùa xuân nho nhỏ, với khát vọng cống hiến cho đời, đồng thời cũng là sự tiếc nuối những năm tháng cuối đời của nhà thơ.
Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng của nhà thơ như tiếc nuối vì sắp lìa xa cuộc đời, trong khi ông vẫn còn rất yêu mến và tha thiết với một ước nguyện chân thành một lòng gắn bó với Đất nước.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Khung cảnh mùa xuân rộn ràng của xứ Huế và Đất nước sau bao năm tháng đau khổ và bị tàn phá bởi chiến tranh hiện lên qua con mắt của nhà thơ Thanh Hải thật đẹp và thú vị.
Tác giả đã dùng thị giá để ngắm nhìn cảnh sắc đất trời vào xuân qua hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc, “con chim chiền chiện”. Đó là dòng sông yên tĩnh và nên thơ không bao giờ vắng mặt trong những câu ca và trang ảnh về Huế, là bông hoa tím đã đi vào những tâm hồn lãng mạn không chỉ của con người nơi đây, của những thi nhân, mà còn cả những ai muốn viếng thăm Huế, là hình ảnh những chú chim lượn đôi cánh mềm trên bầu trời xanh như muốn báo hiệu mùa xuân đang đến gần.
Cùng với tiếng hót lảnh lót của chú chim như phá tan đi không khí ngột ngạt trong những ngày tháng nhà thơ đang chống chọi với bạo bệnh tại bệnh viện Bạch Mai. Là âm thanh đã xua tan những muộn phiền, một âm thanh tươi vui giúp con người sống lại sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, muốn sống và tận hưởng từng ngày để cống hiến hết sức mình cho đất nước.
Từ “ơi” của tác giả nghe sao mà da diết quá, khiến người đọc cảm giác như nhà thơ Thanh Hải đang muốn gọi chim cùng xuống chơi với ông, thật tươi vui và thú vị biết bao. Cảm xúc của nhà thơ như được đẩy lên qua câu thơ cảm thán “hót chi mà vang trời”. Dường như ông cũng muốn hát như chim, muốn được vùng vẫy trên bầu trời cao rộng kia, để được ngắm nhìn cảnh xứ Huế và Đất nước đang dần đổi mình chào đón mùa xuân.
Bên cạnh đó, chỉ bằng những lời thơ bình dị, nhưng lại nổi bật lên tài năng trong bút pháp chuyển đổi từ thính giác và thị giác sang đến xúc giác của tác giả. Nếu như ông đã nghe được tiếng chim hót, nhìn thấy dòng sông xanh cùng những chùm hoa tím đang lặng lờ trôi, thì bây giờ lại dùng bàn tay của mình để hứng từng giọt sương đang “long lanh rơi”.
Hai từ “tôi hứng” nghe như ông đang sống lại những nhiệt huyết của một thời tuổi trẻ, tác giả cảm thấy yêu đời, yêu những gì tự nhiên nhất, yêu luôn cả những chuyển động của vạn vật xung quanh. Có lẽ, tác giả Thanh Hải không muốn phung phí những ngày tháng cuối đời của ông, ông muốn sống trọn vẹn bằng tất cả cảm xúc, giác quan, cái tôi trữ tình để hòa mình vào không khí tươi vui và êm đềm của Đất nước, của xứ Huế trong những ngày xuân khi hòa bình được lập lại.
Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc trào dâng khó tả. Chỉ qua khổ thơ đầu tiên, ông vẽ ra khung cảnh thanh bình và nên thơ của xứ Huế mộng mơ những ngày vào xuân. Cùng những từ ngữ bình bình dị nhưng bút pháp nghệ thuật lại tài hoa và gợi cảm đến lạ.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 12
Đề tài mùa xuân có lẽ là đề tài muôn thuở mà nhà thơ nào cũng ít nhất đã từng viết về. Viết về đề tài này, mỗi nhà thơ lại có những suy tưởng, những ý nghĩ riêng của mình. Nhiều nhà thơ cũng đã để lại dấu ấn của mình trên diễn đàn văn học Việt với những bài thơ xuân như “Vội vàng” – Xuân Diệu, “Mùa xuân chín” – Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” – Nguyễn Bính,…
Nhưng có lẽ mùa xuân để lại trong lòng người đọc cảm xúc nhiều nhất là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Tác phẩm được viết lên khi nhà thơ đang ở những ngày cuối cùng của cuộc đời chứa đựng trong đó là tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước và khát vọng của tác giả.
“Mùa xuân nho nhỏ” có lẽ là bài thơ đặc biệt nhất trên diễn đàn thi ca Việt Nam. Cả bài thơ là nỗi lòng của tác giả, chứa đựng một tình yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết, tấm lòng yêu đất nước non sông và ước nguyện được dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc yêu thương của mình.
Mở đầu bài thơ, người đọc như được bước chân vào một miền quê hương quen thuộc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lang rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Một không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam hiện lên trước mắt người đọc chỉ bằng vài ba nét chấm phá. Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, một vài chú chim nhỏ, chỉ bằng vài nét đơn sơ ấy thôi mà nhà thơ đã vẽ nên cho chúng ta thấy một không gian của một miền quê yên bình.
Không gian thân thuộc ấy, chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên mọi nẻo đường quê hương Việt Nam. Tác giả đã vẽ ra một dòng sông xanh biếc đang miệt mài trôi chảy. Và giữa dòng sông ấy, lại điểm xuyết một nét chấm phá nổi bật “một bông hoa tím biếc”.
Động từ “mọc” được nhà thơ sử dụng ở ngay đầu câu thơ gây nên ấn tượng mạnh, khiến người đọc cảm thấy bông hoa kia như đột ngột nhú lên bất ngờ từ dòng nước xanh. Màu tím có lẽ là màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất. Người ta vẫn ấn tượng với chiếc áo dài xứ Huế tím bay bay trong gió sông Hương thơ mộng.
Vậy nên, ở đây, nhà thơ đã chọn màu tím để hình dung nên mùa xuân của quê hương mình. Khác với các nhà thơ khác, Thanh Hải ở đây không dùng tím nhạt, tím đậm, tím hồng để tả mà lại dùng “tím biếc”. Đọc câu thơ mà người đọc như ngỡ ngàng nhận ra màu sắc ấy hẳn đó là một đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước mênh mông. Ánh tím biếc của đóa hoa ấy như khiến cả mặt sông xanh rạng rỡ hơn, óng ánh hơn. Và không thể thiếu trong bức tranh quê hương thôn dã ấy, là những chú chim đang líu lo hót mừng.
Bằng một giọng nói tha thiết, nhà thơ cất tiếng gọi những chú chim ấy “Ơi con chim chiền chiện”. Không phải sơn ca, không phải chim yến mà lại là loài chiền chiện. Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam với giọng hót cao vút, thường bắt gặp ở đồng rộng hay những bãi quang đãng. Nhà thơ đã cất tiếng gọi “ơi” – một tiếng gọi như dành cho con người. Tiếng hót của chúng cất lên như để báo tin cho con người rằng mùa xuân đã về, đã đến thật rồi.
Nghe tiếng hót ấy, nhà thơ dù đang trên giường bệnh nhưng cũng không thể không vui mừng, và Thanh Hải đã cất tiếng trách yêu “Hót chi mà vang trời”. Giọng nói ngọt ngào, giọng trách hờn dỗi của một người con xứ Huế sao mà đáng yêu, sao mà nhẹ nhàng đến thế! Tiếng hót ấy vang lên không trung cao xa như đang biến thành những giọt những hạt rơi xuống thế gian.
“Từng giọt long lanh rơi” là những giọt mưa xuân hay từng giọt ấy là tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống để chào đón mùa xuân về? Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, không phải dùng thính giác nữa mà là dùng xúc giác. Mùa xuân về đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh. Nhà thơ đã không chỉ cảm nhận được mùa xuân kia mà còn có thể chạm tới nó nữa. Xuân Diệu cũng đã từng tỏ bày:
“Hỡi xuân hồng – ta muốn cắn vào ngươi”
Nếu ở Xuân Diệu, người ta thấy cái ngông cuồng khi muốn cắn, muốn ôm cả mùa xuân vào lòng để thưởng thức cho trọn vẹn thì ở Thanh Hải, người ta lại thấy cái ngọt ngào, cái dịu dàng như nét riêng của người Huế. Nhà thơ chỉ muốn được cảm nhận, muốn được tận tay chạm vào xuân, hứng lấy từng giọt mùa xuân đang trôi chảy kia để tận hưởng mà thôi chứ không muốn xuân là của riêng mình.
Cả khổ thơ là một bức tranh quê hương thôn dã đầy rộn ràng. Đó là bức tranh chào xuân mà chỉ bằng vài nét chấm phá, Thanh Hải đã dựng lên một cách chân thực nhất của làng quê Việt Nam.
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một áng thơ văn chứa đầy cảm xúc, chất trữ tình đúng như tình cảm dịu dàng, thấm đượm của người con xứ Huế. Khổ thơ đầu sử dụng nhịp thơ năm chữ dồn dập nhưng không kém phần nhẹ nhàng, đằm thắm, tác giả đã viết lên nỗi lòng của mình. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết, yêu đời tha thiết dù đang nằm trên giường bệnh, là tình yêu nước, ước vọng được cống hiến cho Tổ quốc dù là một chút nhỏ bé thôi.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 13
Nói đến đề tài mùa xuân, người yêu văn thơ nước nhà nhớ ngay đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ này được xem như sợi dây nối tiếp mạch cảm xúc của mấy mươi năm về trước.
Thanh Hải viết “Mùa xuân nho nhỏ” vào thời điểm sắp kề cận cát bụi nhưng người đọc tìm thấy một tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt, luôn dâng trào ở trái tim tác giả. Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ đã toát lên được điều đó.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Khổ thơ với chỉ bốn câu thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tinh tế tạo nên sự khỏe khoắn, tạo nên sức sống tiềm ẩn, tạo nên sự vươn lên trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.
Điểm nhấn của bức tranh xuân là gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu.
Khung cảnh mùa xuân có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Hót vang trời, đó là thứ thanh âm bay bổng, đằm thắm, dịu dàng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.
Xúc cảm ngây ngất trước khung cảnh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời, lòng người mà say sưa, xốn xang, rộn ràng đến thế.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời.
Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác “hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, đó cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.
Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt. Niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở cuối cùng của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ nhưng màu sắc và âm thanh của sự hồi sinh. Màu tím trong thơ Thanh Hải không trầm mà trở nên tươi, tiếng chim trong thơ Thanh Hải không quá rộn rã mà trong vắt, tròn đầy.
Cho đến hơi thở cuối cùng tác giả vẫn có thể cống hiến cho đời, cuộc đời ông cũng chính là một mùa xuân, “Một mùa xuân nho nhỏ, / Lặng lẽ dâng cho đời”.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 14
“Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào những ngày cuối cuộc đời ông. Bài thơ là khúc hát đắm say của một tâm hồn nồng nhiệt, thiết tha với đất nước, với cuộc đời tươi đẹp. Trước vẻ đẹp của mùa xuân, lòng nhà thơ dạt dào cảm xúc. Tất cả được thể hiện rõ ràng nhất qua khổ 1 của bài thơ.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Không gian được đo bằng độ cao xã của bầu trời và độ rộng dài của dòng sông; được tô vẽ bằng màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh, một nét rất đặc trưng của xứ Huế:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Biện pháp đảo ngữ ngay lập tức tạo ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Hình ảnh bông hoa tím mọc lên giữa dòng sông vừa gây kinh ngạc vừa thu hút cái nhìn. Không phải mọc trên bờ, mà là mọc lên giữa dòng sông. Bông hoa mọc lên bất chấp quy luật là biểu hiện của sức sống. Hình ảnh có giá trị khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
Không gian được mở rộng ra với hình ảnh dòng sông đôi bờ xanh thắm. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở mọi miền quê đất nước.
Không gian ấy cũng rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tiếng chim trong trẻo vang động khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với. Cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh rơi” kìa là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá trong buổi sớm tinh mơ như những hạt ngọc long lanh ánh trời.
Mặt khác, “giọt long lanh rơi” cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành “từng giọt” (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng. Bởi thế, nhà thơ dùng cả cơ thể cảm nhận:“Tôi đưa tay tôi hứng”.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hòa mình vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Đọc thơ Thanh Hải, ta lại nhớ đến những bức tranh mùa xuân được vẽ bằng thơ trong biết bao thi phẩm. Xuân Diệu đứng trước thanh sắc màu xuân mà không thể kìm giữ nổi lòng mình. Dưới con mắt của thi sĩ, bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…”
Với Nguyễn Bính, mùa xuân xanh biếc sắc trời, sắc lúa:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng anh và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng quanh”.
Với Hàn Mặc Tử, mùa xuân đang khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”.
Không quá nồng nhiệt như Xuân Diệu, bí ẩn như Nguyễn Bính hay điệu đà như Hàn Mặc tử, Thanh Hải nhẹ nhàng khám phá mùa xuân tươi xanh và rộn rã. Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc….
Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 15
Thế là bất ngờ xuân tới, nồng nàn, ngất ngây mà dịu dàng, thướt tha quá đỗi. Mùa xuân khác cho mọi vật chiếc áo xanh tươi mơn mởn, điểm những màu hoa trắng hồng trên nền áo nguyên sơ. Xuân về xua tan bao giá băng lạnh lẽo, cho vạn vật hồi sinh tràn dầy sức sống. Xuân sưởi ấm lòng người, thắp cho nhân sinh niềm hi vọng ở ngày mai.
Có lẽ vì thế xuân luôn là đề tài cho thi nhân rung động được cảnh: cảnh thiên nhiên, cảnh đời mà cất bút đề thơ – xuân hà hơi, tiếp sức cho thi sĩ hóa thân vào cuộc đời. Ở nhà thơ Thanh Hải – xuân đáng trân trọng làm sao. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông là một ví dụ. Thật ra, xuân đối với Thanh Hải không hề nho nhỏ mà xuân đang mang trong mình hơi ấm của sự sống Xuân lung linh, đầy sắc màu của tình yêu, yêu đời, yêu người tha thiết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả đặc trưng của mùa xuân, chỉ có mùa xuân mới có cảnh vật ngạt ngào như thế:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Dòng sông xanh là một dòng sông thanh bình yên ả – đó là tín hiệu báo mùa xuân dần về sắc tím biếc của bông hoa nổi trội, đậm đà, nồng ấm cả dòng sông xanh – xuân là thế, dịu dàng mà nồng đượm sắc hương.
Bông hoa là có thật, hay chỉ là dáng hình của niềm tin? Niềm hi vọng là sắc màu tím biếc thân quen của quê hương mà mãi in đậm trong tâm tưởng nhà thơ thấp thoáng trong câu thơ màu tím của chiếc áo dài nữ sinh xứ Huế từng là ấn tượng khó phai của người dân Cố đô. Mùa xuân ở đây thật hào phóng nên sẵn sàng trao tặng cho ai biết trải rộng lòng mình:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng…
Tiếng gọi ơi nghe sôi nổi và tha thiết biết bao. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự thăng hoa của tâm hồn, điêu luyện trong ngòi bút. Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ hót chỉ thể hiện tâm trạng đùa vui, nô nức của tác giả trước giai điệu của mùa xuân. Tiếng chim hót trong trẻo, vang lừng xa như gần lại rõ ràng, tròn trịa kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu đọng lại thành giọt long lanh rơi, rơi mãi.
Nhà thơ đã tưởng tượng bằng tất cả rung động của tâm hồn “tôi đưa tay tôi hứng” người đang hứng những tiếng chim hót cứ như là hứng những giọt mưa rơi. Từ tưởng tượng tác giả chuyển sang cảm giác thật tinh tế và tài hoa. Làm sao có thể hứng những âm thanh không hình dáng, kích thước ấy nhưng thật ra âm thạnh đó đã rót vào trái tim mẫn cảm với cuộc sống tinh tế với mọi âm thanh, sắc màu:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đến đây, nhà thơ không còn cầm bút nữa mà đang ôm đàn, gõ phách hát bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống. Nhà thơ muốn hóa thân vào muôn loài vạn vật làm tươi đẹp rộn ràng cho cuộc sống: một tiếng chim hót trong buổi sáng mai bắt đầu một ngày mới; một nhành hoa tô điểm cho vườn hoa cuộc đời; một nốt trầm làm xao xuyến vạn trái tim.
Tất cả đã thể hiện niềm khát khao sống, khát khao hiến dâng đến khôn cùng của tác giả. Điều đáng nói ở đây là khi sáng tác bài thơ, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Trong cái tuổi đương xuân của đời người ấy có mấy ai chấp nhận được sự thật là mình sắp lìa khỏi cõi đời với phong thái yêu đời an nhiên giữa mùa xuân như thế.
Với Thanh Hải, không ai đoán trước được bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông sẽ tồn tại bao lâu nhưng ít ra trước khi ra đi, ông đã để lại cho độc giả một bài thơ yêu đời, hồn nhiên đến lạ và giữ lại trong ông một phong cách thơ bình dị, chân thành.
Xin cảm ơn mùa xuân, cảm ơn thi nhân đã để lại cho đời những vần thơ vượt thời gian làm ấm lòng độc giả trong những nỗi mưu sinh nhọc nhằn của cuộc sống.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 16
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, là mùa muôn vật hồi sinh sự sống. Mùa xuân làm cho con người cuồn cuộn sức sống, thêm yêu đời, yêu vạn vật. Đề tài mùa xuân được xuất hiện trong rất nhiều sáng tác. Trong đó phải kể đến Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Mở đầu bài thơ là những vần thơ giản dị, ngắn mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống ấm êm cho quê hương:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Chỉ bằng vài câu thơ tác giả đã vẽ lên cảnh thiên nhiên quê mình thật nên thơ, đẹp và lãng mạn. Mùa xuân trên quê hương Thanh Hải không rực rỡ kiêu sa mà chỉ đơn giản là một bông hoa mọc lên giữa dòng sông xanh ngắt, nhưng nó lại đem lại cảm giác xao xuyến cho người đọc. Bằng niềm cảm xúc lâng lâng, Thanh Hải đã tả con sông quê hương mình xanh ngắt mà nhẹ nhàng, được chất thơ sâu lắng.
“Mọc giữa dòng sông xanh”
Dòng sông quê hương Thanh Hải vốn là con sông nổi tiếng quanh năm xanh ngắt với muôn vàn vẻ đẹp, nhất là vào mùa xuân của xứ Huế cổ kính càng đẹp hơn.
Đọc tiếp câu thơ, ta thấy tác giả đã mô tả hình ảnh một bông hoa tím biếc. Ôi còn cảnh nào đẹp hơn, khi giữa dòng sông xanh hiện lên một đóa hoa tím biếc lừng lững trôi giữa dòng. Tác giả đã sử dụng màu sắc thật hài hòa. Màu tím hiện lên giữa màu xanh là một hình ảnh nổi bật nhưng không rực rỡ mà nên thơ nhẹ nhàng, hài hòa và duyên dáng. Bức tranh sinh động nhưng có nét gì đó mang chút suy tư, nhưng nó cũng bị thay đổi bởi bóng dáng của một con chim:
“Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh xứ Huế vào xuân càng sinh động hơn không chỉ bằng con sông Hương thơ mộng mà còn sinh động bởi những tiếng hót véo von của đàn chim chiền chiện. Tiếng chim hót líu lo vang trời đủ cho ta thấy nét đẹp của Huế ra sao. Câu thơ gợi cho ta có một chút băn khoăn bởi giữ không gian tĩnh lặng đó, một con chim chiền chiện mà có thể hát vang được cả bầu trời rộng lớn kia.
Có lẽ chỉ có tác giả khi đã hòa mình vào cảnh vật để cảm nhận vẻ đẹp của quê hương mới có thể bừng tỉnh vì tiếng hót của con chim và có cảm giác như tiếng hót của nó xé toang không gian tĩnh lặng đó. Một cái đẹp vừa cổ kính vừa bình dị và tràn đầy sức sống:
“Từng giọt long lanh rơi”
Từ giọt ở đây khiến chúng ta phải suy nghĩ đó là giọt sương, giọt mưa xuân hay là giọt hạnh phúc. Đây chính là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Có biết bao nhiêu điều cần mô tả vậy mà tác giả chỉ đọng lại trong vài từ đơn sơ giọt long lanh độc đáo đó. Có lẽ giọt long lanh mà tác giả muốn nói tới là giọt tiếng chim, bởi chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được những điều mà mắt thường không nhìn thấy được.
Câu thơ tưởng như có sự vô lý lại trở thành hợp lý. Ông có cảm giác như một người say, say trước vẻ đẹp nên thơ, yêu kiều của mùa xuân. Vẻ đẹp đó được ông nâng niu trân trọng và giường như tác giả muốn giữ vẻ đẹp đó cho riêng mình nên đã muốn giơ tay hứng lấy. Có lẽ tác giả muốn cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng xương bằng thịt của mình:
“Tôi đưa tay tôi hứng”
Hình ảnh Tôi đưa tay tôi hứng làm ta hình dung có một giọt sương rơi, một giọt mưa xuân hay có thể trừu tượng là tác giả đang hứng một giọt hạnh phúc mà quê hương hay bản thân mình đã tạo ra. Từ đấy, với khổ thơ trên chỉ bằng vài nét phác họa, cùng với sự chuyển đổi giác quan, tác giả tạo ra một mùa xuân thiên nhiên nơi Huế với một vẻ đẹp tao nhã, nên thơ, giản dị và khoáng đạt.
Đọc Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta như được tận hưởng cái vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân. Mùa xuân như có men say và nó đã lan tỏa vào vạn vật, vào da thịt của con người. Thanh Hải đã dâng tặng cho đời một mùa xuân tràn trề nhựa sống, một mùa xuân tươi đẹp báo hiệu một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 17
Huế là một thành phố thơ mộng, hữu tình, vẻ đẹp nơi Huế được kết tinh bởi những tấm lòng hồn hậu của con người nơi đây và thiên nhiên tươi đẹp, mơ màng đậm nét cổ kín. Và có lẽ, chính bởi nét thơ trong Huế mà có biết bao thi nhân dành cho Huế những vần thơ yêu thương nhất, xinh đẹp nhất để bày tỏ sự yêu mến và trân trọng.
Một trong những thi phẩm hay nhất phải kể đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ được tác giả viết vào những năm tháng cuối đời bằng tất cả sự nhiệt huyết, tin yêu. Khổ đầu bài thơ đã mang đến cho người thưởng thức một bức tranh mùa xuân trên đất Huế thanh bình và dạt dào sức sống:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Huế vốn được mọi người biết đến với dòng sông Hương trữ tình, dòng sông Hương ấy như một người thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng. Đưa sông Hương vào thơ có lẽ là điều không mới, nhưng cái độc đáo ở đấy là tác giả đã vẽ nên một sông Hương đặc biệt, một dòng sông có riêng một bông hoa tím biếc. Màu trong xanh của dòng nước cùng với màu tím của bóng hoa tạo nên sự hài hoà về màu sắc. Bông hoa ấy giữa dòng sông sâu vẫn vươn mình mạnh mẽ, toả ngát sắc hương đầy kiêu hãnh.
Phải chăng bông hoa ấy cũng chính là biểu tượng của những con người nơi mảnh đất kinh kỳ xứ Huế, giữa dòng đời đầy những vất vả, bon chen hoa vẫn giữ cho mình nếp sống thanh cao, vẫn giàu nghị lực và vươn mình toả sáng.
Bông hoa tím biếc ấy phải chăng chính là những thi nhân tài năng như Thanh Tịnh, Tố Hữu,…là những người lãnh đạo anh minh như Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Anh… Đất Huế mọc lên những con người tài ba, sáng suốt là niềm tự hào của muôn triệu người dân đất Việt qua bao thời gian. Động từ “mọc” được đặt đầu câu càng cho thấy được sự mạnh mẽ trong hành động ,trong ý chí của vạn vật và con người nơi đây.
Và mùa xuân nơi Huế đâu chỉ có sắc thôi, còn có cả những thanh âm của vạn vật nữa. Đó là tiếng chim của nàng chiền chiện đang hót chào xuân:
“Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Tiếng “ơi!” cất lên nghe sao mà thân thương đến vậy, đó là tiếng gọi mời hay lời xúc cảm gửi đến nàng chim. Nếu trong thơ Nguyễn Du, cánh én chao nghiêng báo mùa xuân về thì Thanh Hải lại chọn nàng chim chiền chiện với tiếng hót vang vọng. Tiếng hót ây làm rung động cả đất trời, cả không gian, cả tâm hồn người thi sĩ. Tiếng “chi” rất Huế được tác giả sử dụng càng làm cho lời thơ thêm xúc động, cánh chim chiền chiện cũng chính là một phần của Huế, mang cả tiếng nói và tâm hồn của Huế đấy thôi.
Bông hoa, dòng sông, tiếng chim,..vốn bình thường và nhỏ bé ấy lại góp nên một mùa xuân rực rỡ và căng tràn sức sống. Thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân lúc này tựa như một bức tranh chốn thiên đường, mời gọi mọi người thưởng thức và cảm nhận. Không cầu kỳ, chẳng hoa mỹ, xuân thấm vào vạn vật sự bình dị mà an yên.
Người thi sĩ muốn giữ lại hết tất thảy những yêu thương đó mà thốt lên:
“ Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Những giọt nhỏ, giọt nhỏ của hạnh phúc đong đầy, của sức xuân dào dạt, của những giọt sương long lanh buổi bình minh trong lành được tác giả giữ trọn vẹn.
Đưa đôi bàn tay dịu dàng hứng lấy những khoảnh khắc diệu kỳ của cuộc sống, nâng niu thứ âm thanh huyền diệu của tiếng chim, nâng niu thứ cảm xúc yêu thương và êm ái lúc này để thấy đời cho ta bao điều đẹp đẽ, để thấy tâm hồn mình được thanh lọc chỉ còn chất chứa những niềm thương. Dường như, lúc này đây, nhà thơ đang mơ, đang say, đang bị mê hoặc trước vẻ đẹp của nàng xuân kiều diễm của quê hương mình.
Khổ thơ chỉ với sáu câu thơ thôi mà gợi lên bao nhiêu nỗi bâng khuâng, tự hào và hạnh phúc. Hồn thơ da diết những yêu thương của người con xứ Huế Thanh Hải đã cho ta hiểu hơn những vẻ đẹp bình dị của quê hương, để ta biết nhìn lại mình, yêu thương và cống hiến cho quê hương, đất nước hôm nay.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 18
Nguyễn Du đã từng viết về mùa xuân thế này:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Thật đẹp đẽ biết mấy! Mùa xuân – mùa khởi sự của vạn vật, của những điều tốt đẹp và may mắn. Và mùa xuân cũng là mùa khơi gợi lên trong lòng những người thi sĩ niềm cảm hứng thật bất tận. Có lẽ bởi vậy mà nhà thơ Thanh Hải trong những ngày cuối của cuộc đời đã viết lên một khúc ca về mùa xuân với vẻ đẹp đắm say lòng người, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên, khổ thơ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên với những nét vẽ tinh tế nhất:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được tác giả Thanh Hải sáng tác vào tháng 11 năm 1980 khi mà ông đang nằm dưỡng bệnh. Không thể bước ra ngoài, lại giữa cái lạnh giá của mùa đông, thế nhưng rạo rực trong tâm can ông là hình ảnh của mùa xuân, mùa xuân trên xứ Huế – quê hương thân thuộc của ông.
Những hình ảnh mùa xuân, âm thanh của xuân như ru ông vào bản tình ca đầy mê hoặc, và là nguồn cảm hứng để ông viết lên tác phẩm để đời của mình. Bài thơ chứa chan trong đó là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước của Thanh Hải, và hơn thế, nó ẩn chứa khát vọng được cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước vô cùng mãnh liệt của ông.
Mùa xuân nho nhỏ được mở đầu bằng hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên – một mùa xuân thật đẹp trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Một mùa xuân được gợi ra từ không gian rộng lớn với hoa, với dòng sông, với những chú chim và bầu trời cao rộng.
Và bức tranh xuân ấy thật ấn tượng khi xuất hiện ngay dòng đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Chỉ một bông hoa thôi, bông hoa báo hiệu xuân về, báo hiệu nàng xuân tới gõ cửa thế nhưng lại khiến cho con người ta xao xuyến không thôi. Bông hoa ấy mọc ngay giữa một dòng sông xanh mát, trong vắt đang lững lờ trôi ngang. Như nhiều người biết rằng, với Huế, màu tím là một thứ màu sắc cực kì quen thuộc, là nét đặc trưng chỉ riêng mình Huế. Những tà áo dài màu tím tung bay bên dòng sông Hương thơ mộng. Có lẽ chính vì thế mà bông hoa báo hiệu mùa xuân kia lại mang một màu “tím biếc”.
Ánh tím ấy lóng lánh, màu tím của hoa lục bình, ánh lên trong nắng, ánh lên giữa dòng sông. Chỉ một bông hoa nhỏ bé thôi mà ta nghe như mùa xuân đã cận kề, chực chờ ùa tới thật nhanh. Động từ “mọc” được Thanh Hải đảo lên đầu câu, tạo nên cho người đọc một sự bất ngờ, đột ngột thật khó tả. Một bông hoa như trồi lên từ dòng sông, một dấu hiệu mà khiến cho ai nhìn thấy cũng cảm thất bất ngờ, bất chợt như mùa xuân đến, cũng đột ngột khó quên như vậy.
Và dòng sông trong thơ Thanh Hải, hẳn là dòng sông Hương thì đang lững lờ trông trong màu xanh tha thiết, trải dài thật mênh mông, êm ả trước mắt chúng ta.
Chỉ với hai câu thơ mà ta thấy ở đây có nhiều màu sắc quá, rực rỡ quá! Sắc xanh, sắc tím, hòa quyện với nhau, ánh lên trong màu nắng sớm, dịu dàng như người con gái Huế. Xuân đến thật bất ngờ, nhẹ nhàng và đột ngột, chẳng hề báo trước. Nhà thơ chắc hẳn phải yêu Huế tha thiết bởi mỗi từ ngữ trong thơ của ông đều ánh lên một sắc Huế, một màu sắc rất riêng, không thể pha trộn được.
Nếu như hai câu thơ đầu, Thanh Hải dùng màu sắc, dùng hình ảnh đóa hoa để gợi tả mùa xuân thì hai câu thơ tiếp theo, ông lại dùng một dấu hiệu khác để thêm vào bức tranh xuân đến của mình, đó là tiếng chim ngân.
Tiếng chim cất lên lanh lảnh, vang vọng giữa bầu trời cao rộng. Tiếng chim ấy như tha thiết níu gọi mùa xuân về. Chẳng hề hoa mỹ khi cho rằng, chính những chú chim là người báo hiệu mùa xuân về nhanh nhạy nhất. Ở đây, Thanh Hải đã dùng loài chim chiền chiện làm người đưa tin của mùa xuân, loài chim ấy vô cùng thân thuộc với mỗi con người chúng ta. Mỗi tiếng hót của chúng như một khúc nhạc đồng quê vẳng lên trong tâm hồn mỗi con người.
Không chỉ thế, ông còn cất tiếng gọi những chú chim kia, một tiếng gọi nghe sao mà tha thiết, thân thương, đáng yêu như đối với một con người:
“Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời”
Chiền chiện cất tiếng hót vang cả bầu trời xanh, gọi xuân đến, thế nhưng, nhà thơ lại như đang trách cứ, hờn dỗi chúng rằng: “Hót chi mà vang trời”. Tiếng hót lảnh lót cả trời xanh khiến nhà thơ càng rạo rực, bởi ông muốn đứng dậy, bước ra ngoài thiên nhiên để tận hưởng không khí mùa xuân đang ngập tràn trong tâm hồn mình. Chữ “chi” được Thanh Hải dùng ở đây, nghe sao mà dạt dào, tha thiết, bởi nó mang âm hưởng của xứ Huế, của một người con cứ xứ Huế yêu thương.
Kết lại khổ thơ, hai câu thơ cuối như mang linh hồn của mùa xuân vào trong từng câu chữ. Có lẽ, với tất cả tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu mùa xuân của mình, Thanh Hải đã cô đọng lại, hàm súc nó trong hai câu thơ này:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Từng giọt long lanh” ở đây là gì thế? Là những giọt sương trong nắng sớm hay là những giọt mưa mùa xuân, hay phải chăng là giọt mùa xuân khi từng tiếng chim trên cao đang cô đặc lại, lắng xuống, sóng sánh rơi xuống trần gian này? Từng “giọt long lanh” ấy như là giọt mật của mùa xuân, cái mà hết thảy chúng ta đều mơ ước được chạm vào. Và nhà thơ cũng vậy, như một phản xạ tự nhiên, ông đưa tay “hứng” từng giọt mật ngọt ngào ấy – một cử chỉ thật tao nhã, đáng yêu.
Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để chúng ta cảm nhận được rằng mùa xuân không còn vô hình nữa, nó như một thực thể, một vật hữu hình mà con gái có thể chạm vào, sờ thấy và nếm thử.
Và hành động “hứng” mùa xuân ấy của nhà thơ là một hành động của một con người tha thiết yêu tha thiết thiên nhiên, muốn được tận hưởng mùa xuân thật trọn vẹn ngay từ những phút giây đầu tiên. Bởi mùa xuân này đang ở trong trí tưởng tượng của ông, khi tâm hồn ông đang bay bổng cùng làn gió xuân tươi mát.
Bức tranh mùa xuân thiên nhiên được Thanh Hải dựng lên bằng tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết. Mùa xuân với ông là những gì thân thuộc nhất, gần gũi, giản dị nhất trên quê hương thân yêu này. Và có lẽ, nhà thơ đang khao khát được ngồi dậy, được bước ra khỏi giường bệnh này để ra ngoài mà tận hưởng cái không khí mùa xuân kia, tận hưởng những hương những sắc tươi đẹp ngoài kia.
Thể thơ năm chữ, với nhạc điệu dịu dàng, dìu dặt như một khúc ca xứ Huế, tha thiết mà gần gũi đã giúp cho chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về những cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, Thanh Hải cũng sử dụng vô cùng tinh tế những hình ảnh thơ rất trong trẻo giản dị, cùng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến cho người đọc những ấn tượng thật sâu sắc.
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải trước mùa xuân. Nó không chỉ cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của mùa xuân trên quê hương ông, xứ Huế thân thương với sông Hương êm đềm, với những chú chim chiền chiện mà đồng thời nó còn diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết của một người con xứ Huế vào những ngày cuối của cuộc đời – nhà thơ Thanh Hải.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 19
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Cũng chính từ những cảm xúc bất tận cho mùa xuân mà mở đầu “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải đã dùng nét vẽ khoáng đạt để tạo nên bức tranh mùa xuân tự nhiên mà giản dị:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm nhà thơ đang phải đối mặt với bệnh tật đau đớn. Điều đặc biệt là bài thơ viết về mùa xuân nhưng thời điểm viết lại là lúc trời vào thu. Như vậy, nhà thơ đã dùng tất cả tình yêu cũng như khát vọng sống của mình để viết về mùa xuân bởi xuân là mùa của sự sống, của cây cối đâm chồi nảy lộc.
Khổ thơ là bức tranh xuân với nhiều nét chấm phá tinh tế. Đông từ “mọc” được tác giả đặt ở đầu câu thơ gợi cảm giác của sự trỗi dậy đầy khỏe khoắn, mạnh mẽ, gợi sức sống căng tràn của mùa xuân. Ngoài ra nó cũng gợi sự ấn tượng, sự bất ngờ của nhà thơ về sự xuất hiện sau đó của “bông hoa tím biếc”.
Màu tím là sắc màu đặc trưng của xứ Huế. Trên dòng sông xanh mát của đất Huế hiện lên một bông hoa tím mộng mơ. Sắc xanh hòa cùng sắc tím đã đem đến cho không gian vẻ đẹp tự nhiên mà tươi mát. Bông hoa dù xuất hiện một mình nhưng không hề cô đơn, nhỏ bé mà lại căng tràn sức sống và trở thành linh hồn cho bức tranh.
Thiên nhiên, đất trời Huế vào xuân không chỉ màu sắc, có hương hoa mà còn có cả âm thanh:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Với cách sử dụng từ cảm thán “Ơi” cùng lời hỏi đáp “Hót chi”, Thanh Hải đã mang đến cảm giác gần gũi, đậm chất Huế cho người đọc. Ngôn từ mang đến cảm giác nhẹ nhàng, tình cảm còn âm thanh lại kéo theo sự trong trẻo, tươi vui. Cả không gian tĩnh lặng bỗng bừng sức sống nhờ âm thanh tiếng chim trên trời cao. Tiếng chim hót không chỉ gợi cái mênh mông của không gian mà còn đem đến cảm giác cao vợi của trời đất. Như vậy, mùa xuân đến trong lòng nhà thơ với những cung bậc cảm xúc từ ngỡ ngàng đến rộn ràng, vui tươi.
Trước khung cảnh thiên nhiên đó, tác giả đã bộc lộ những cảm xúc đậm chất tình của mình:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cảm xúc của nhà thơ đang được diễn tả một cách vừa tự nhiên, vừa giản dị. “Giọt long lanh rơi” khiến người đọc phải đặt ra nhiều dấu hỏi. Phải chăng, Thanh Hải đang muốn nhắc đến giọt sương? Giọt nắng? Giọt mưa? Hay là âm thanh tiếng chim đã ngưng tụ lại thành hình, thành khối?
Dù hiểu theo cách nào ta đều có thể nhận ra sự tinh tế trong cách miêu tả cũng như tình cảm nhà Thanh Hải dành cho mùa xuân. Từ cảm xúc dẫn đến hành động, cử chỉ “đưa tay… hứng” đã thể hiện rất rõ sự trân trọng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất trời. Như vậy, sau sự tươi vui của bức tranh, tác giả đã kết lại bằng tất cả tình yêu mến cũng như sự trân trọng của mình.
Một lần nữa đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời của nó, đó là khi Thanh Hải đang phải chống chọi từng ngày để giành giật lại sự sống. Có vậy ta mới thấy tác giả khao khát được sống, khao khát được hòa mình với thiên nhiên đến nhường nào. Bằng những hình ảnh hết sức bình dị, quen thuộc cùng vài nét chấm phá nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đậm chất xuân xứ Huế bằng tất cả tình yêu của mình.
Có thể nói, chỉ qua đoạn đầu của “Mùa xuân nho nhỏ” ta có thể thấy bài thơ đã góp một phần không nhỏ cho sắc thu của thơ ca Việt Nam.
Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 20
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc “
Tiếng ngâm ngọt ngào, bay bổng của nghệ sĩ Thu Hương trong chương trình “đêm thơ’ làm cả nhà em chăm chú, lắng nghe.
Một cảm giác lâng lâng đầy xúc cảm chạỵ khắp cơ thể em. Ôi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đấy ư? Đó là một trong những bài thơ trong chương trình Văn lớp Chín đã để lại trong em những ấn tượng đẹp nhất. Mùa xuân nho nhỏ, thật là nho nhỏ khi hai khổ thơ đầu chỉ là những vần thơ giản dị, ngắn, mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân Cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống êm ấm cho quê hương:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã tả cảnh thiện nhiên quê mình thật nên thơ. Bằng niềm cảm xúc lâng lâng, Thanh Hải đã tả con sông quê hương mình xanh ngắt, mà nhẹ nhàng, đượm chất thơ sâu lắng.
“Mọc giữa dòng sông xanh “
Dòng sông Hương nơi quê Thanh Hải vốn là một con sông nổi tiếng, quanh năm xanh ngắt với muôn vàn vẻ đẹp, nhất là vào mùa xuân của xứ Huế cổ kính càng đẹp hơn.
Đọc tiếp câu thơ, ta thấy tác giả đã mô tả hình ảnh “Một bông hoa tím biếc”. Ôi! Còn cảnh nào đẹp hơn, khi giữa dòng sông xanh lại có một bổng hoa tím biếc mọc lên giữa dòng. Tác giả đã sử dụng màu sắc thật hài hoà: ở giữa dòng sông xanh lại có một màu tím nổi lên. Màu tím hiện lên giữa màu xanh, đó là hình ảnh của một vẻ đẹp nổi bật nhưng không rực rỡ, mà nên thơ nhẹ nhàng, hài hoà duyên dáng.
“Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh xứ Huế vào mùa xuân càng sinh động hơn không chỉ bằng con sông Hương xứ thơ mà còn sinh động bởi những tiếng hót líu lo của loài chim chiền chiên. Tiếng chim chiền chiện “Hót chi mà vang trời” cũng đủ để cho ta thấy nét đep của xứ Huế ra sao? Một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa sinh động, tràn đầy sức sống:
“Từng giọt long lanh rơi”
Từ “giọt” ở đây chúng ta có thể nghĩ đó là giọt sương, giọt mưa xuân, hay cũng có thể là giọt hạnh phúc. Đây chính là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc của tác giả và có biết bao nhiêu điều cần mô tả, mà tác giả chỉ cô đọng lại trong từ đơn sơ “giọt long lanh” độc đáo đó:
“Tôi đưa tay tôi hứng”
Hình ảnh “tôi đưa tay tôi hứng” làm ta hình dung giọt sương rơi, giọt mưa xuân hay có thể trừu tượng là tác giả hứng được giọt hạnh phúc mà đất nước, nhân dân, hay chính bản thân mình đã gộp phần tạo nên.
Thế đấy, với khổ thơ trên chỉ bằng vài ba nét phác hoạ, cùng với sự chuyển đổi giác quan, tác giả tạo ra một mùa xuân thiên nhiên nơi xứ Huế với một vẻ đẹp thật tao nhã, nên thơ mà giản dị đầm ấm.
Tóm lại khổ thơ lời ít ý nhiều, tác giả đã diễn tả cảm xúc của mình về một mùa xuân nho nhỏ trên quê hương sau mấy năm giải phóng. Đó là quê hương của xứ Huế mộng mơ đã hòa chung với cuộc sống thanh bình của cả nước.
Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Thiên nhiên vạn vật với vẻ đẹp hấp dẫn, phong phú luôn là nguồn đề tài thu hút, khơi nguồn cảm hứng ở các tác giả. Đặc biệt là khoảnh khắc giao mùa, những tâm hồn tinh tế nắm bắt trọn vẹn khoảnh khắc mùa cũ qua đi, mùa mới ghé đến. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, Thanh Hải đã nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế mộng mơ. Nó được thể hiện đặc biệt rõ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Tiếng ngâm ngọt ngào, bay bổng của nghệ sĩ Thu Hương trong chương trình “đêm thơ” làm cả nhà em chăm chú, lắng nghe. Một cảm giác lâng lâng đầy xúc cảm chạy khắp cơ thể em. Ôi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đấy ư? Đó là một trong những bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng đẹp nhất. Mùa xuân nho nhỏ, thật là nho nhỏ khi hai khổ thơ đầu chỉ là những vần thơ giản dị, ngắn, mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân Cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống êm ấm cho quê hương.
Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm vì khi đó thiên nhiên đất trời với bao hình ảnh sắc xuân tràn đầy, là khoảnh khắc bao người con xa quê trở về đoàn tụ cùng gia đình và để rồi mùa xuân chính là mùa đáng nhớ nhất trong lòng mỗi người. Cũng giống như Thanh Hải, ông đã có cho riêng mình một mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đó là một “Mùa xuân nho nhỏ” với bao hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ và một khao khát giản đơn sẽ được cống hiến sức mình cho đất nước.
Mỗi một mùa xuân khi xuất hiện trong năm đều như báo hiệu cho những sự khởi đầu, tất cả như được khoác trên mình một tấm áo mới thật rạng rỡ kết hợp nhiều gam màu tươi sáng. Cũng giống như mùa xuân của đất nước, đó là sự bắt đầu một năm của đất nước đẹp đẽ, là những gì tinh túy và căng tràn sức sống nhất.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng..”
Khung cảnh mùa xuân hiện ra trước mắt tác giả là một không gian có bầu trời cao rộng còn dòng sông rộng thì dài. Đó là những vẻ đẹp thiên nhiên bình dị và thân thuộc với con người. Nghệ thuật đảo ngữ qua từ “mọc” mà Thanh Hải lựa chọn như đang mô tả một sức sống mãnh liệt đang từng bước trỗi dậy và vươn lên từ những cảnh vật xung quanh, bông hoa chính là một sự tưởng tượng vừa có sức sống vừa có sức gợi.
Bức tranh thiên nhiên với vạn vật tĩnh lặng ấy dường như được đánh thức trở lại bởi tiếng hót của con chim chiền chiện. Một con chim bé xíu nhưng lại khuấy động cả một không gian, nhưng thật ra chỉ có mỗi tác giả mới có thể cảm nhận và nghe thấy được mà thôi. Một con người nhỏ bé trước đất trời rộng lớn đang lắng nghe những điều tuyệt vời nhỏ nhắn đến từ bên ngoài cuộc sống.
Mọi khoảnh khắc dù là nhỏ bé nhưng bừng sức sống và thổi vào hồn thơ những cảm xúc lặng lẽ của Thanh Hải. Hình ảnh “giọt long lanh” ở đây chính là những giọt mưa, giọt sương hay giọt âm thanh vang dội. Nhưng có lẽ đó là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà tác giả sử dụng như minh chứng cho một điều rằng tác giả đang sử dụng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận và tiếp xúc với thiên nhiên. Chỉ duy mỗi nhà thơ mới có thể cảm nhận được hết mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước. “Tôi đưa tay tôi hứng” chính là hứng những gì tinh túy nhất của thiên nhiên đất trời ban tặng.
Thanh Hải như đang bị cuốn mình vào trong những gì đẹp đẽ nhất, ông hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên vốn giản đơn nhưng lại có một sức hút lạ kì.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”.
Vẻ đẹp của mùa xuân được thể hiện vỏn vẹn trong một từ “lộc”. Lộc ở đây tức là những sắc xuân đang đâm chồi và nở rộ, và đó cũng là những gì mà mùa xuân mang đến cho con người. Mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người cầm súng đang miệt mài bảo vệ biên cương và sự bình yên cho đất nước, mùa xuân hiện lên qua hình ảnh người ra đồng vì những con người ấy đã mang đến vẻ đẹp rực rỡ trên ruộng lúa, nương mạ.
Để hồi hình ảnh đất nước hiện lên với một chặng đường lịch sử dài dằng dặc nhưng niềm tin về tương lai tươi sáng của tác giả dành cho đất nước thì chưa bao giờ dập tắt:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
Đất nước ta đã trải qua bao cuộc kháng chiến với bao quân giặc xâm lược, đất nước ta đã trải qua một chặng đường lịch sử dài với nhiều sự kiện lớn lao và đặc biệt. Nhưng đất nước ta vẫn như những vì sao đẹp đẽ luôn tỏa sáng một cách phi thường, vì ở đó đã có những con người hy sinh trên chiến trường vì Tổ quốc, đã có những con người không bao giờ từ bỏ để đem lại bình yên cho dân tộc. Một đất nước đẹp đẽ được hiện lên và thể hiện được một điều rằng đó là ý chí kiên cường và sức mạnh to lớn của đất nước Việt Nam tươi đẹp.
Mùa xuân nho nhỏ mang đến nhiều thông điệp đẹp đẽ
Khi còn nằm trên giường bệnh, Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời được khơi nguồn từ những cảm xúc về mùa xuân thiên nhiên đất trời. Ước nguyện của tác giả là những ước nguyện rất chân thành, là khao khát được hòa nhập vào cuộc đời chung của đất nước:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”.
Thanh Hải đã có những ước nguyện với cuộc đời, mong muốn được cống hiến và làm nhiều việc có ích cho đời. Điệp từ “ta làm” được lặp lại chứng tỏ một điều rằng Thanh Hải luôn mang một sự khao khát được cống hiến với đất nước.
Con chim hót luôn đem lại tiếng ca cho cuộc đời, góp mặt vào những điều đẹp đẽ và dành tặng “chút nhiều” hạnh phúc cho con người. Một cành hoa tô điểm sắc màu của những ngày xuân ấm áp. Một nốt trầm tạo nên một giai điệu trầm lắng trong một bản hòa ca ngọt ngào, tuy lặng lẽ nhưng lại mang một sức mạnh tinh thần to lớn để động viên con người trong bối cảnh lúc bấy giờ. Cả ba hình ảnh ẩn dụ ấy như là những gì đẹp nhất, đặc biệt nhất trong không khí vui tươi của con người và đất nước Việt.
Điều đặc biệt trong đoạn thơ này, tác giả đã đổi cách xưng hô từ “tôi” thành “ta”, là cái tôi cá nhân hòa mình trong cộng đồng. Cách xưng hô này không chỉ nói đến mỗi tác giả mà còn hướng đến cái chung, đó là tất cả con người đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam. Ông luôn có một ước mơ, một hy vọng được hóa thân thành chim, thành hoa, thành những nốt nhạc để góp vui cho đời.
Sự hòa nhập với con người, với cuộc đời chính là ước mơ, là khát vọng của Thanh Hải. Vì bởi lẽ, ông luôn muốn cống hiến sức lực của mình dù là nhỏ bé cho một cuộc đời chung. Bầu không khí vui tươi của một sự khởi đầu mới, Thanh Hải đơn thuần chỉ muốn làm một nốt nhạc thầm lặng, là lặng lẽ nhưng mãnh liệt, là ước muốn hoàn thành trọn vẹn một bản hòa ca mùa xuân cho đất nước.
Ước nguyện của Thanh Hải cũng chính là mong muốn, sự khao khát của con người trong bối cảnh xã hội hiện nay và cả những “thời đã cũ”. Sống là khao khát và cống hiến cho đời mới là ý nghĩa tuyệt vời nhất và nâng cao giá trị bản thân của con người.
Quả thật, dân tộc Việt Nam luôn là những con người mạnh mẽ và tràn đầy nghị lực. Họ không sợ trời, không sợ đất, họ luôn trong một trạng thái sẵn sàng ra trận khi Tổ Quốc cần thì sẽ có mặt. Những khao khát cống hiến cho đời chính là “mục tiêu” chung nhất của con người, dù là trẻ, dù là già, dù ở bất kì độ tuổi nào:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
Mùa xuân luôn khiến người ta nghĩ về những điều mới mẻ, một sự tái sinh và đổi mới toàn diện. Mỗi con người đều có một “mùa xuân” riêng của mình, là thanh xuân, là tuổi trẻ. Từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” mà tác giả đề cập đến ở đây thể hiện những điều nhỏ bé bình thường nhưng vẫn đóng góp một cách âm thầm cho cuộc đời, cho lẽ sống.
Dù con người có đang ở độ tuổi đẹp nhất của thanh xuân nhưng hơn bao giờ hết họ không thấy tiếc khi dành trọn cả tuổi xuân của mình cho đất nước, mà ngược lại, sự hiến dâng cho cuộc đời mới là lối sống đẹp đẽ mà mỗi con người Việt Nam đã và đang sở hữu. Dù ở bất kì độ tuổi nào, hãy sống một cách trọn vẹn và hết mình, góp công sức của bản thân để phục vụ cho đất nước, đó mới chính là ý nghĩa.
Những cảm xúc của Thanh Hải luôn xuất phát từ những gì thật nhất, hướng mọi người sống phải hòa nhập, chứ đừng hòa tan. Mỗi người chúng ta dù là thời bình hay thời chiến, hãy cố gắng mỗi ngày, đóng góp và giúp ích cho đời, cho đất nước để vui cho chính mình và cho cuộc đời, nếu chúng ta thờ ơ vô cảm với cuộc sống.
Điệp ngữ “dù là” lặp lại đến hai lần tha thiết sâu lắng như một sự khẳng định tuổi 20 là lúc con người ta đang có những hoài bão cho riêng mình, có sức trẻ và có sức khỏe nhưng khi tóc bạc sẽ trở nên già yếu gần kề với cái chết hơn.
Sống chính là phấn đấu, là làm đẹp cho đất nước vậy nên hãy sống đẹp nhất có thể thì cuộc đời sẽ trở nên tươi đẹp hơn biết bao. Dù là khi Thanh Hải còn đang nằm trên giường bệnh nhưng trái tim và lòng nhiệt thành đối với đất nước chưa bao giờ thôi ngưng trong tâm hồn và suy nghĩ của ông. Để rồi khi kết lại, tác giả đã sử dụng điệu hát dân ca Huế để ngợi ca quê hương của mình. Và còn là một lời ước nguyện giản dị của tác giả dành cho đất nước, một niềm tự hào vô cùng sâu sắc:
“Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”.
“Mùa xuân nho nhỏ” được tác giả sử dụng thể thơ năm chữ với giọng thơ khi thì da diết khi thì mạnh mẽ và mãnh liệt. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phép điệp như là một sự nhấn mạnh, khẳng định rằng ông luôn có một khát vọng cháy bỏng là được đóng góp công sức bé nhỏ của mình cho đất nước. Biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh…được vận dụng một cách tinh tế và sáng tạo.
Bài thơ chính là một sự đóng góp tuyệt vời của Thanh Hải dành cho sự khởi đầu của đất nước. Mùa xuân thật đẹp, nhưng sẽ đẹp hơn khi người ta có một tình yêu dành cho đất nước. Thông điệp mà Thanh Hải muốn gửi đến với mọi người trong bất cứ thời đại nào là hãy luôn sống và chiến đấu hết mình trong công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Nghị luận bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
Phạm Duy từng viết trong một bài thơ của mình câu thơ đặc sắc như sau: “Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng khi đi hết những lời mẹ ru”. Ý nghĩa của những lời mẹ ru đã trở nên thận thuộc gắn bó với tuổi thơ của mỗi người. Cũng với những xúc cảm yêu thương sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng ấy Chế Lan Viễn đã thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế những cảm xúc ấy qua bài thơ Con cò. Một bài thơ để lại nhiều ấn tượng cho người đọc về những kỷ niệm thời thơ ấu, về lời ru tha thiết ngọt ngào, để lại những suy tư thật êm đềm về lòng mẹ đối với đứa con yêu dấu của mình.
Chế Lan Viên (1920-1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Quảng Trị, lớn lên ở Đình Định. Sự nghiệp sáng tác của ông trải dài khoảng hơn 50 năm. Trước Cách mạng ông nổi lên với tập thơ Điêu tàn (1937), tập thơ đã đưa Chế Lan Viên trở thành một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau Cách mạng ông lại là một nhà văn xuất sắc của thơ ca Cách mạng Việt Nam với những tập thơ Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), Di cảo thơ (1989). Thơ của Chế Lan Viên luôn giàu chất trí tuệ, có màu sắc suy tưởng, triết lý. Thơ ông còn có năng lực sáng tạo hình ảnh rất độc đáo, phong phú và tinh tế.
Con cò được sáng tác năm 1962, in ở trong tập Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967). Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, các câu ngắn dài đan xen một cách nhuần nhuyễn, cả bài thơ là âm điệu của những lời ru mà người mẹ dành cho con mình. Con cò khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru qua đó ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với mỗi con người. Bài thơ có sự vận dụng rất sáng tạo cấu tứ của ca dao, cùng thở thơ tự do, có những hình ảnh hết sức gần gũi thân thuộc vừa mang ý nghĩa biểu tượng vừa gợi âm hưởng lời ru êm đềm trong tiềm thức mỗi người.
Trong khúc ru thứ nhất, hình ảnh con cò bắt đầu đến với tuổi thơ của đứa bé thật thong thả, ung dung.
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay…”
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng…”
Hình ảnh con cò không chỉ xuất hiện ở nhan đề mà còn xuất hiện trở đi trở lại trong suốt bài thơ, sự lặp lại ấy nhằm tập trung triển khai nhan đề của tác phẩm, với nhiều ý nghĩa khác nhau trong suốt bài thơ. Âm hưởng của ca dao đã hiện lên ngay trong những dòng thơ mà tác giả tinh tế đặt trong ngoặc kép, là những cấu tư mà Chế Lan Viên đã tinh tế lược lấy để đưa vào thơ mình, nhằm thể hiện chân thực cái lời mẹ ru con. Người mẹ đã đưa vào tâm trí đứa con còn bế trên tay, bằng lời tâm tình, lời hát ru dịu dàng, cái khung cảnh quen thuộc nơi làng quê, thật yên bình, tươi đẹp, cho con say giấc êm đềm.
Có thể thấy trong lời ru của mẹ, cánh cò luôn hiện diện, cũng như những tình cảm ấm áp trìu mến yêu thương mà người mẹ dành cho đứa con thơ. Hai câu thơ tiếp:
“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”
Tác giả viết bằng câu tám chữ với cấu trúc vừa song hành, vừa tương phản của cò và con. Lời ru của người mẹ vừa bộc lộ nỗi xót xa, ái ngại cho sự cô độc, lẻ loi của cánh cò nhỏ bé, người mẹ lại khẳng định sự che chở, nuôi dưỡng đùm bọc con, con khác với cò, con có sự chăm chút nuôi nấng cả mẹ, con có thể thoải mái chơi rồi ngủ. Hình ảnh cánh cò từ trong ca dao lại tiếp tục xuất hiện:
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng…”
Khác với hình ảnh con cò trong ca dao ở bên trên, ở đây Chế Lan viên cũng dùng âm hưởng của ca dao, nhưng lại để miêu tả nỗi vất vả, khó nhọc của con cò. Cò phải cô độc mò mẫm, gặp biết bao nguy hiểm, phải sợ sệt. Qua đó ta cũng có thể nhận thấy đây dường như là một hình ảnh ẩn dụ, gửi gắm vào đó thân phận của người nông dân chân lấm tay bùn, chịu nhiều vất vả, đắng cay, đặc biệt là thân phận những người bà, người mẹ phải lặn lội kiếm sống từng ngày. Tuy vậy nhưng họ vẫn nỗ lực giữ gìn nhân cách, phẩm giá thanh cao, giữ lại đức cho con cháu mình.
“Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”
Chế Lan Viên đi từ hình ảnh con cò ung dung, thanh thản bay từ cửa Phủ, bay từ Đồng Đăng đến con cò ăn đêm, con cò xa tổ. Tất cả đều là những nỗi lo lắng, trăn trở, những dự cảm sâu sắc của người mẹ về những bất trắc có thể xảy ra đối với đứa con bé bỏng của mình. Chính thế người mẹ đã thể hiện lòng bao dung che chở cho con bằng những lời ru thật ấm áp, ngọt ngào “thấm hơi xuân”, bằng tình mẹ bao la khi “Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”. Mẹ đã sẵn tay nâng cành mềm, che chở con khỏi sợ hãi, đơn độc, cho con những ngày tháng thật êm đềm, hạnh phúc, mà không cần phải lo đến “những cành mềm mẹ hát”.
“Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi
Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”
Ở khổ thơ thứ hai dường như nhà thơ đã bao quát toàn bộ cuộc đời của đứa trẻ, từ khi mới cắp sách tới trường cho tới khi khôn lớn và làm một nghề nào đó có thể là nghề thi sĩ. Đấy cũng chính là đại diện cho cuộc đời của mỗi một con người, ai cũng đều trải qua những giai đoạn như vậy. Và trong suốt chặng đường đó hình ảnh con cò vẫn luôn gắn bó với đứa trẻ, đã đi vào tiềm thức hết sức thân thuộc với mỗi người. Có thể thấy lời ru thiết tha, trìu mến của người mẹ đã đưa đứa con vào trong giấc ngủ say nồng. Trong những lời ru ấy cánh cò vẫn bay hoài không nghỉ, vẫn theo suốt trong từng hơi thở, trong từng giấc mơ của đứa trẻ. Dường như con cò từ trong ca dao đã thực sự sống dậy trong tâm hồn con người, vỗ cánh nâng đỡ cho con người trong suốt chặng đường đời. Chặng đầu tiên ấy là khi con còn ẵm ngửa, con còn ngủ trong nôi, cò đã đến cùng lời ru của mẹ, vào giấc ngủ thay mẹ vỗ về con ngủ. Khi con bắt đầu chập chững tới trường, cò lại theo con tới trường, có thể nói cánh cò chính là biểu tượng của người mẹ hằng ngày vẫn dõi theo con. Rồi mai này con khôn lớn, mẹ mong con làm thi sĩ, được sống một cuộc đời tự do tự tại, được như cò vỗ cánh bay xa, rồi con sẽ nhớ lại cánh cò, như nhớ về mẹ trong “hơi mát câu văn”.
“Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”
Trong khổ thơ cuối nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng giọng thơ dìu dặt của lời ru, từng câu chữ lắng đọng những suy tư thật sâu sắc. Con cò được nhấn mạnh như là một hình tượng có ý nghĩa triết lý hơn cả. Hình tượng con cò chính là biểu tượng của lòng người mẹ yêu con tha thiết, sẽ luôn ở bên con suốt cả cuộc đời. Dù con có đi xa hay gần, lên rừng hay xuống biển, nhưng cánh cò trong lời ru của mẹ sẽ mãi theo con, sống trong tiềm thức của con, thay cho mẹ theo con từng bước đi. Dù mai sau khôn lớn, con đã rời xa mẹ đi khắp mọi phương trời, thì đối với mẹ con vẫn mãi bé bỏng, vẫn cần mẹ phải che chở. Chính vậy mẹ sẽ theo con cả đời, để có thể bảo vệ con suốt đời.
“Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi”
Và sau tất cả, Chế Lan Viên đã đúc kết lại ý nghĩa lời ru của mẹ. Đối với nhà thơ con cò không chỉ nằm trong ca dao, trong lời ru ngọt ngào của mẹ mà có còn có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Cánh cò bay là cả cuộc đời, với biết bao suy tư, bao thăng trầm của cuộc đời, từ cánh cò mẹ dạy con biết bao điều, gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm mà có lẽ cả cuộc đời con cũng chưa chắc đã biết hết được. Mẹ yêu con nhiều đến thế, yều từ những lời ru, những cánh cò cho con.
Bài thơ đã ca ngợi cái tình cảm thắm thiết thiêng liêng của tình mẹ yêu con, qua đó Chế Lan Viên cũng ca ngợi ý nghĩa của mỗi lời ru đối với tâm hồn, cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ đã vận dụng rất nhuần nhuyễn chất liệu ca dao, khai thác được hình ảnh con cò trong ca dao để nói về tình mẫu tử, ý nghĩa của lời ru. Giọng điệu của lời thơ có nhiều sáng tạo về ngôn ngữ, về cách sử dụng hình ảnh, nhiều câu thơ có sức triết lý sâu sắc.
Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Nhan đề của bài thơ làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên của mùa xuân qua những vần thơ đầy ý nghĩa. Bông hoa tím biếc và âm thanh rộn rã tả một thế giới tràn đầy nhựa sống. Cảnh mùa xuân mang nét riêng của xứ Huế, khác với hình ảnh mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, một không gian thoáng rộng với nền cỏ xanh điểm hoa lê trắng hay khác với sắc xuân trong thơ Hàn Mặc Tử: “Làn nắng ửng khói mơ tan” . Mùa xuân trong thơ Thanh Hải là dòng sông xanh trong suốt từ bao giờ. Dòng sông xanh chính là dòng sông Hương thơ mộng với sắc hoa lục bình tím biếc. Một màu tím đặc trưng cho xứ Huế mộng mơ. Khiến cho mỗi người đọc liên tưởng đến mỗi vần thơ của nhà thơ Lê Anh Xuân. Cách đảo ngữ “mọc”, gây ấn tượng về sự vươn lên đầy sức sống cỏ cây – một sức sống tràn trề tươi trẻ, một sự vận động nội tại của thiên nhiên cỏ cây. Cả một không gian cao rộng, nghe tiếng chim hót nàng thơ thốt lên lời gọi của tiếng chim thật thật thiết tha.
Thế là mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng đã đến với xứ Huế. Ông yêu cái xứ Huế đến nỗi nghĩ đến xứ Huế với bao tình cảm đẹp, thiết tha, da diết. Thế nên bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình cảm của con người, cảm thấy tình cảm của con người dành cho quê hương đất nước như thấm vào máu thịt. Tâm hồn nhà thơ lại mở rộng để đón nhận, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp sức sống nhẹ nhàng đưa tay đón lấy, hứng lấy “Từng giọt long lanh rơi” … Giọt âm thanh hay giọt sương? Cũng có thể là giọt mưa xuân. Bài ca xứ Huế vào xuân nghe tiếng hót trong trẻo véo von, thánh thót của chim chiền chiện. Có lẽ âm thanh ấy sẽ kết đọng lại thành giọt long lanh, lấp lánh và nhà thơ muốn đưa tay nhận từng giọt âm thanh ấy! Rất sáng tạo và đầy gợi cảm!
Nếu như Xuân Diệu đã có lần say sưa trước vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” để rồi hào hứng thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì Thanh Hải cũng ngất ngây tưởng chừng như hứng được cả tiếng xuân, giọt xuân trong tay.Thanh Hải đã dùng nghệ thuật chuyển hoá cảm xúc của mình. Từ âm thanh của tiếng chim nhà thơ tưởng như thấy được bằng thính giác, đã có thể nhìn thấy nó bằng thị giác rồi hứng cả tiếng chim trong tay bằng xúc giác. Dường như nhà thơ căng hết các giác quan của mình để đón nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời vào xuân. Cảm xúc ấy chỉ có thể có được trong một con người bình yên, không có một chút vướng bận, lo lắng gì cả. Đó cũng là cảm xúc của một con người yêu cuộc đời, yêu cuộc sống biết bao!
Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
Nhan đề của bài thơ làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên của mùa xuân qua những vần thơ đầy ý nghĩa. Bông hoa tím biếc và âm thanh rộn rã tả một thế giới tràn đầy nhựa sống. Cảnh mùa xuân mang nét riêng của xứ Huế, khác với hình ảnh mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, một không gian thoáng rộng với nền cỏ xanh điểm hoa lê trắng hay khác với sắc xuân trong thơ Hàn Mặc Tử: “Làn nắng ửng khói mơ tan” . Mùa xuân trong thơ Thanh Hải là dòng sông xanh trong suốt từ bao giờ. Dòng sông xanh chính là dòng sông Hương thơ mộng với sắc hoa lục bình tím biếc. Một màu tím đặc trưng cho xứ Huế mộng mơ. Khiến cho mỗi người đọc liên tưởng đến mỗi vần thơ của nhà thơ Lê Anh Xuân. Cách đảo ngữ “mọc”, gây ấn tượng về sự vươn lên đầy sức sống cỏ cây – một sức sống tràn trề tươi trẻ, một sự vận động nội tại của thiên nhiên cỏ cây. Cả một không gian cao rộng, nghe tiếng chim hót nàng thơ thốt lên lời gọi của tiếng chim thật thật thiết tha.
Thế là mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng đã đến với xứ Huế. Ông yêu cái xứ Huế đến nỗi nghĩ đến xứ Huế với bao tình cảm đẹp, thiết tha, da diết. Thế nên bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình cảm của con người, cảm thấy tình cảm của con người dành cho quê hương đất nước như thấm vào máu thịt. Tâm hồn nhà thơ lại mở rộng để đón nhận, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp sức sống nhẹ nhàng đưa tay đón lấy, hứng lấy “Từng giọt long lanh rơi” … Giọt âm thanh hay giọt sương? Cũng có thể là giọt mưa xuân. Bài ca xứ Huế vào xuân nghe tiếng hót trong trẻo véo von, thánh thót của chim chiền chiện. Có lẽ âm thanh ấy sẽ kết đọng lại thành giọt long lanh, lấp lánh và nhà thơ muốn đưa tay nhận từng giọt âm thanh ấy! Rất sáng tạo và đầy gợi cảm!
Nếu như Xuân Diệu đã có lần say sưa trước vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” để rồi hào hứng thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì Thanh Hải cũng ngất ngây tưởng chừng như hứng được cả tiếng xuân, giọt xuân trong tay.Thanh Hải đã dùng nghệ thuật chuyển hoá cảm xúc của mình. Từ âm thanh của tiếng chim nhà thơ tưởng như thấy được bằng thính giác, đã có thể nhìn thấy nó bằng thị giác rồi hứng cả tiếng chim trong tay bằng xúc giác. Dường như nhà thơ căng hết các giác quan của mình để đón nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời vào xuân. Cảm xúc ấy chỉ có thể có được trong một con người bình yên, không có một chút vướng bận, lo lắng gì cả. Đó cũng là cảm xúc của một con người yêu cuộc đời, yêu cuộc sống biết bao!
Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay – mẫu 1
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt nam có bước đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em”. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.
Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên… là thế hệ măng đã sắp thành tre, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trò của mình đối với bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước. Tương lai đất nước là vận mệnh, là số phận của đất nước mà mỗi công dân sẽ góp phần xây dựng, phát triển, trong đó quan trọng nhất là thế hệ trẻ. Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì đòi hỏi sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nồng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ quốc.
Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng đường đại học, đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê cùng lòng nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, còn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện cho tầng lớp trẻ phát triển toàn diện, sinh ra những người con có ích cho đất nước, đó là điều tất yếu, hiển nhiên mà ai cũng biết. Mỗi người chúng ta cũng đi qua thời tuổi trẻ- tuổi của sức mạnh phi thường, của cái tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn và sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Sức mạnh vô sông của tuổi trẻ “sông kia phải chuyển, núi kia phải dời”. Chúng ta chỉ có một lần trong đời là tuổi trẻ vì vậy cần phải nắm bắt, cần đóng góp sức lực cho đất nước.Việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ không phải của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người thì lẽ nào tuổi trẻ lại không thể xây dựng đất nước. Chẳng lẽ chúng ta để cho những cụ già đi khuân vác, lao động nặng, những phụ nữ phải ngày đêm làm việc trong các nhà xưởng đầy khói bụi, những trẻ em phải phụ giúp gia đình ngay còn nhỏ mà “quên” đi việc học hành, lúc đó chúng ta sẽ “làm” gì? Chẳng lẽ ngồi không như một “người bị liệt”. Vì vậy chúng ta phải cố gắng xây dựng đất nước như lời dặn của Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Sinh ra ở đời ai cũng khao khát được sống hạnh phúc, sung sướng. Mỗi người luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là lý tưởng sống. Là chủ nhân tương lai thì chúng ta phải xác định cho mình lý tưởng sống phù hợp, đúng đắn. Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay thì tuổi trẻ chúng ta lại đứng trước một câu hỏi lớn: “Sống như thế nào là đúng đắn là có ích cho xã hội?” Vì lý tưởng sống của chúng ta là động lực thúc đẩy đất nước phát triển.Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xong pha vào những nơi gian khổ mà không ngại khó. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời kì kháng chiến. Những người con đất nước như: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám… đã hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Đây là những thanh niên của hơn 40 năm trước còn lớp thanh niên ngày nay thì sao?
Vâng. Cách bạn ạ! Chúng ta nên biết một điều: những thế hệ trước đã dâng hiến xương máu để ngày sau độc lập thì chúng ta phải biết “cùng nhau giữ nước” và nối tiếp, kế thừa truyền thống cao đẹp đó. Và một điều quan trọng là các bạn đừng nghĩ đó là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta phải hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và sống tự do, no đủ là một món quà quý báu, vô giá mà quê hương xã hội đã ban tặng. Hạnh phúc không tự nhiên mà có mà đó xương máu, tâm huyết của biết bao người con của đất nước.Mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, suy nghĩ riêng. Chúng ta không được bác bỏ, phũ nhận quá khứ hay công sức của những anh hùng dân tộc. Đơn giản là vì mỗi thế hệ đều có sứ mệnh riêng, nhận thức riêng mà chúng ta không nên so bì, tính toán. Vì vậy: “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ” (như tổng bí thư Đỗ Mười nói). Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính là học tập. Nói đến tuổi trẻ hôm nay là nói đến việc học hành.. Trong cuộc sống ta gặp không ít trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha mẹ, thầy cô thúc ép, chứ không ham học. Họ xem đi học như một hình thúc giải khuây cho vui nên không cần học tập, coi học học tập là một nỗi nhọc nhằn.Có người lại coi việc học là để ứng phó với đời, để không xấu hổ với mọi người, để có “bằng cấp” mà hãnh diện với đời, dù đó chỉ là “hàng giả” mà thực lực không làm được.Chúng chẳng những không đưa nước ta “sánh kịp với cường quốc năm châu” mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại. Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình.Bước vào thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, lèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc. Và nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nữa, học mãi. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang.
Tóm lại, tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai đất nước sau này.Tuổi trẻ nước ta đầy rẫy nhân tài sẽ góp phần cho dáng hình sứ sở. Ngay từ hôm nay, tôi, bạn và tất cả mọi người phải cố gắng học tập để sau này có thể giúp nước ta tiến nhanh trên con đường xây dựng và phát triển nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
Tình cảm và trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay – mẫu 2
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)
Tố Hữu – nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải – đã viết trong bài “Một khúc ca xuân” những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Đó là “lặng lẽ dâng cho đời”. Còn Thanh Hải khi viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi, không những đã giãi bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.
Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa điểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ đặc sắc nói về sức cống hiến, khát vọng đóng góp và trở thành người có ích của tác giả Thanh Hải. Dù nằm trên giường bệnh nhưng ông luôn lạc quan, khát khao sống và cống hiến cho cuộc đời và đất nước. Phải là người yêu quê hương đất nước tha thiết lắm ông mới có thể viết được những dòng thơ hay và đẹp để miêu tả, tái hiện chân thực hình ảnh mùa xuân của tự nhiên và mùa xuân của đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay, cần ý thức được tầm quan trọng cũng như trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của dân tộc và đất nước. Trong thời đại mới, thời đại của hội nhập toàn cầu, của giao lưu và phát triển kinh tế, mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò của mình trong việc thay đổi diện mạo, nâng tầm đất nước.
Muốn thực hiện được điều đó, trước tiên cần trang bị cho mình sự vững chãi về kiến thức, kĩ năng đáp ứng những yêu cầu cơ bản của xã hội trong công cuộc hiện đại hóa nước nhà. Thế hệ trẻ cần ý thức được nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước luôn đi liền với nhau, điều này đòi hỏi lớp người trẻ phải có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, và ước mơ hoài bão cống hiến. Tất cả sự hưng thịnh, tồn vong của đất nước vì thế thế hệ trẻ phải nỗ lực, cố gắng hết mình ngay từ hiện tại.
Vẻ đẹp mùa xuân đất nước qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1
Mùa xuân là mùa của cái đẹp đâm chồi là mùa của sự căng tràn đầy sức sống, là mỗi sớm mai thức dậy được hít hà cái không khí dịu nhẹ tươi mát, là mùa của chồi non lộc biếc cùng những câu hát dân ca quan họ trữ tình. Có lẽ vì thế mà mùa xuân đã mang lại rất nhiều cảm hứng sáng tác cho với văn nghệ sĩ, đã đi vào lăng kính của thơ văn như một sự tất yếu và trữ tình.
Với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân vừa là tiếng lòng tha thiết, yêu mến, khát khao gắn bó với cuộc đời, với quê hương đất nước và khát vọng được hiến dâng, chính vì vậy mà bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã ra đời như thế. Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và rất tươi đẹp:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Cảm xúc về thiên nhiên thật tươi mới và thân thuộc trong khung cảnh đồng quê. Màu tím biếc của bông hoa lục bình soi dưới bóng của dòng sông xanh mát, tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca xuân bằng tiếng hát trong trẻo của mình, đây là loài chim báo hiệu một tương lai ấm no hạnh phúc cho con người. Lời thơ như tiếng hát, tiếng gọi say đắm trước khung cảnh thiên nhiên, trước bức tranh xuân đẹp dịu dàng. Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế được tác giả đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ ngắm dòng sông xanh, ngắm bông hoa bé nhỏ, nghe tiếng chim hót và bất giác thấy giọt sương long lanh trên tán lá cũng đủ làm trái tim của chúng ta thổn thức theo nhịp thở của mùa xuân. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của sắc trời khi bước vào xuân.
Khổ thơ thứ hai chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài hương lúa.
Sự chuyển mạch rất nhẹ nhàng và hợp lý. Bởi mùa xuân ấy đâu chỉ riêng là lộc của một vùng miền nào mà là của cả đất nước, của tất cả mọi người. Từ ”lộc” được nhắc lại hai lần ở đầu mỗi câu có thể hiểu như sức mạnh của dân tộc. Khi lộc đang “trải dài” trên những thửa ruộng những cánh đồng xanh ngát, bạt ngàn hương vị dịu ngọt của lúa.
Người ra đồng và người cầm súng là hai lực lượng chính để xây dựng Tổ Quốc. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc.
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Biết bao mùa xuân đã trôi qua, biết bao mùa xuân của dân tộc với những chiến công hiển hách đã in dấu ấn vàng son của dân tộc. Bao “vất vả” và “gian lao”, bao khó khăn khi trải qua thời kỳ bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đất nước Việt Nam ấy giờ đang tỏa sáng, phát triển và đi lên như những ngôi sao sáng rực rỡ trên bài trời của hòa bình, của tự do. Từ “cứ” thể hiện ra ý chí, quyết tâm, thể hiện một chân lý đơn giản mà thiêng liêng về khát khao của cả một dân tộc. Có thể nói những nỗi vất vả ấy bây giờ đã được đền đáp lại bằng những mùa xuân tươi đẹp, dài vô tận. Ước nguyện của nhà thơ thật chân thành:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Tác giả muốn trở thành con chim hót để gọi mùa xuân về, để mang tiếng hót trong trẻo, hạnh phúc để tô điểm thêm cho núi sông. Tác giả cũng muốn làm một” nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca vĩ đại của dân tộc để động viên và khích lệ tinh thần nhân dân. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.
Một mùa xuân nhỏ nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là khi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Một người cống hiến một mùa xuân nho nhỏ sẽ là cả một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. Mùa xuân nhỏ ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và đầy sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả. Khổ cuối là tiếng hát yêu thương:
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế
Trong khổ thơ tác giả đã nói đến hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế bao đời này đó là giai điệu: Nam ai và Nam bình. Câu hát truyền thống và thiêng liêng ấy vẫn mãi đi sâu vào trái tim con người của chính tác giả đến phút cuối đời cùng khát vọng sống và cống hiến cho đất nước.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là viên ngọc sáng trong chùm thơ xuân của dân tộc.
Vẻ đẹp mùa xuân đất nước qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”, “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả
Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân
Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sĩ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:
Ta làm con chim hót
Ta làm một canh hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả. Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ
Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:
“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1
“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Thanh Hải. Tác phẩm đã diễn tả được lòng yêu thiên nhiên, đất nước cũng như khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên vào mùa xuân với những nét đẹp thật giản dị:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bức tranh được mở ra với không gian thật thoáng đãng của dòng sông, bầu trời và tiếng chim chiền chiện. Dòng sông xanh – một dòng sông thơ mộng hòa với đó là sắc tím của loài hoa. Tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca mùa xuân bằng tiếng hót trong trẻo của mình. Đây là loài chim báo hiệu khi mùa xuân về với khát khao hy vọng về một tương lai ấm no, hạnh phúc cho con người. Những câu thơ đọc lên gợi ra một bức tranh mùa xuân dịu dàng, say đắm. Hai tiếng “hót chi” vốn là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế. Khi được nhà thơ đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ với một vài hình ảnh đơn giản cũng đủ để chúng ta cảm nhận được hơi thở của mùa xuân.
Tiếp đến là những cảm nhận về mùa xuân của đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
“Người ra đồng” và “người cầm súng” là hai lực lượng chính để bảo vệ và xây dựng đất nước – những người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ nền hòa bình và những người nông dân lao động phục vụ chiến đấu. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc. Nhiều mùa xuân đã trôi qua, máu và mồ hôi đã đổ xuống thì đất nước mới có được nền độc lập như ngày hôm nay:
“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Hình ảnh đất nước bốn nghìn năm – gợi ra chiều dài lịch sử lâu đời của dân tộc. Trong suốt bốn nghìn năm đó, đất nước đã phải trải rất nhiều “vất vả” và “gian lao” để dựng nước và giữ nước. Đất nước lúc này đã giống như “vì sao” ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cách dùng từ “cứ” thể hiện sự quyết tâm vươn về phía trước, không chịu đầu hàng khuất phục trước mọi khó khăn. Những vất vả khi trước đã được đến đáp bằng những mùa xuân tươi đẹp của hiện tại.
Cuối cùng, nhà thơ bộc lộ ước nguyện chân thành của mình:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Tác giả mong muốn trở thành “con chim hót” để nhập gọi mùa xuân về. Và mong muốn làm “một cành hoa” để dâng hiến hương sắc đẹp đẽ cho đời. Cuối cùng tác giả còn muốn “nhập vào hòa ca” để trở thành một nốt trầm xao xuyến trong bản nhạc say mê. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Một người cống hiến một “mùa xuân nho nhỏ” sẽ tạo thành một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. “Mùa xuân nho nhỏ” ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả.
Kết thúc bài thơ là tiếng hát đầy yêu thương:
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Như vậy, “Mùa xuân nho nhỏ” đã cho người đọc cảm nhận được tiếng lòng đầy tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành từ tận đáy lòng của nhà thơ.
Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được một tiếng thơ đầy thiết tha mong muốn được cống hiến cho đất nước.
Mở đầu là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Chỉ bằng vài nét vẽ đơn giản và những hình ảnh thật thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có sự kết hợp của không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím” kết hợp với cách sử dụng các từ ngữ “ơi” , “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Hình ảnh ẩn dụ “giọt long lanh” hay chính là giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Hình ảnh “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Không khí lao động khẩn trương rộn ràng, say mê.
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Điệp từ “tất cả” ,từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Hình ảnh so sánh đẹp “đất nước như vì sao” gợi cho ta về hình ảnh đất nước toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng.
Trước mùa xuân của thiên nhiên và đất nước, nhà thơ bộc lộ niềm khát vọng hiến dâng của mình:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa tỏa ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh túy nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.
Khi đọc xong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, người đọc đã cảm nhận được tình yêu mùa xuân của tác giả gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, cũng như khát khao dâng hiến cho cuộc đời.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 1
Mùa xuân trong thi ca là đề tài được nhiều nhà thơ khai thác. Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, là mùa của khát khao sống mãnh liệt, là mùa của niềm tin vào cuộc đời. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của mảnh đất Huế thân yêu đã có bài thơ vô cùng hay viết về mùa xuân đó chính là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Điều tuyệt vời nhất là ông sáng tác bài thơ này khi đang nằm trên giường bệnh. Một người đang đau ốm mà vẫn cảm nhận được cái đẹp của mùa xuân. Chao ôi, mùa xuân ấy mới đẹp làm sao.
Suốt cuộc đời của mình, nhà thơ Thanh Hải đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc qua cả hai cuộc đấu tranh chống Mỹ và chống Pháp. Cái khát vọng được dâng hiến cuộc đời mình cho Tổ quốc luôn ẩn chứa trong con người tác giả. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ. Có thể xem đây là bài thơ, là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dành tặng cho chúng ta, dành tặng cho chính cuộc đời của ông.
Mặc dù đang ở trong tâm thế là người bệnh nhưng nhà thơ Thanh Hải viết nên những vần thơ không hề có sự buồn bực của một người sắp lìa xa cõi đời. Ngược lại, câu thơ của ông chứa đựng nét thiết tha và thanh thản. Một giọng văn đầy cởi mở và tươi mới. Tác giả đã nhìn thấy cảnh sắc của một mùa xuân mới thông qua một ô cửa sổ nhỏ, lắng nghe được tiếng gọi của mùa xuân một cách đầy tinh tế.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Màu tím là một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Chúng ta vẫn nói Huế tím mộng mơ là vì thế. Màu tím biếc của bông hoa nổi bật lên giữa màu xanh của dòng sông. Đó là những bông hoa bèo đầy dân dã. Mặc dù tả màu tím của hoa nhưng khi đọc lên người đọc lại liên tưởng đến cả màu tím của tà áo dài của những cô gái Huế. Chúng mỏng manh và thật gợi tình. Từ chỗ nhìn thấy, tác giả bắt đầu nghe thấy. Đó là âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trời. Chim chiền chiện là loài chim thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân. Hình ảnh chim “hót chi mà vang trời” biểu lộ cho một sự vui tươi của cảnh vật và của chính nhà thơ nữa. Cảnh vật đẹp như vậy nên nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng mình. Muốn hứng lấy từng giọt long lanh của đất trời. “Giọt long lanh”, đó có thể là giọt sương mai, cũng có thể là tiếng chim hót được nhà thơ viết theo một lối chơi chữ tài tình. Hiểu theo cách nào thì cũng đủ để người đọc cảm nhận được sự trân quý của tác giả Thanh Hải đối với cảnh đẹp thiên nhiên.
Sau khi cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tác giả lại cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân đất nước qua hình ảnh những người chiến sĩ, những người nông dân bám mình trên đồng ruộng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Ở khổ thơ này tuy tác giả không nhắc đến màu xanh nhưng ta lại thấy màu xanh ngập tràn cả khổ thơ. Đó là màu xanh của lá cây mà những người chiến sĩ giắt đầy quanh mình ngụy trang, đó là màu xanh của nương mạ gieo ngoài đồng vào mùa xuân. Mùa xuân, người lính thì ra chiến trường, người nông dân thì ra đồng cày cấy và trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Mỗi người mỗi công việc nhưng ai cũng hối hả, ai cũng xôn xao. Họ tìm thấy niềm vui trong việc mà họ đang làm. Chính họ là những người đã đem mùa xuân đến cho Tổ quốc của chúng ta. Dấu chửng lửng ở cuối đoạn thơ như ý muốn nói mùa xuân ấy vẫn sẽ còn tiếp diễn đời này qua đời khác. Bốn câu thơ tiếp theo chính là thể hiện cho sự tiếp nối ấy:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Câu thơ là một sự tự hào của tác giả đối với đất nước. Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi vất vả và nhọc nhằn. Thế nhưng sau tất cả, tinh thần dân tộc vẫn giúp chúng ta đi lên. Tác giả ví “đất nước như vì sao” bởi lẽ những ngôi sao lúc nào cũng sáng lấp lánh trên đầu trời đêm. Đất nước dù khó khăn cũng sẽ vững vàng mà tiến lên phía trước.
Trước sự tự hào của bản thân về đất nước, nhà thơ đã muốn hóa thân mình thành con chim, thành nhanh hoa, thành nốt trầm để hiến dâng cho cuộc đời. Mong ước ấy thật giản đơn nhưng cũng thật vĩ đại:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Những điều nhà thơ mong muốn tưởng như rất bình dị nhưng chính những điều đó lại làm nên nét đẹp của cuộc đời, làm nên một bản hòa ca với những thanh âm trong trẻo. Thật đẹp biết bao tâm hồn của thi sĩ. Thật đáng quý biết bao khi ở trong hoàn cảnh như nhà thơ mà vẫn muốn được hiến dâng mình cho Tổ quốc. Mong ước của tác giả có lẽ cũng là mong ước chung của nhiều người
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mỗi người trong chúng ta đều là một mùa xuân nhỏ. Từng mùa xuân nhỏ ấy lặng lẽ dâng cho cuộc đời một mùa xuân lớn, một mùa xuân chung cho tất cả. Chẳng cần phải là vĩ nhân, chỉ cần là những người dân bình dị sống hết mình cho quê hương, Tổ quốc thì dù đầu xanh hay tóc bạc cũng đã góp phần làm nên mùa xuân rồi.
Kết bài, một khúc hát quen thuộc của Huế vang lên. Nếu như Bác Hồ trước lúc đi xa muốn nghe một câu hát dân ca thì ở đây tác giả cũng ngân vang khúc ca xứ Huế. Điều đó cho thấy tình yêu của ông dành cho quê hương mình quả là bất diệt:
Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bao nhiêu tâm tư, tác giả đều đã gửi gắm vào trong những vần thơ. Người ta thường nói lời của người trước khi mất là những lời chân thực nhất. Qua những vần thơ của Thanh Hải, người đọc hẳn cũng đã cảm nhận được cái chân thành trong con người ông. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ mang đến cho người đọc ý nghĩa của cuộc sống, mang đến cho con người ta khát vọng về niềm vui sống mãnh liệt. Viết về mùa xuân nho nhỏ nhưng lại nói lên được cái tình cảm lớn lao của con người, tác giả đã để lại trong lòng người đọc nỗi xúc động trào dâng.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – mẫu 2
Tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người luôn là một niềm cảm hứng bất tận trong thơ ca. Thế nhưng, những tình cảm yêu mến đó được xuất phát trong hoàn cảnh nào mới là điều mà bạn đọc đặc biệt chú ý. Có nhà thơ thể hiện trong những bài thơ ca về chiến tranh, có nhà thơ lại viết về nó trong thời bình. Còn Thanh Hải, ông đã viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ vào tháng 11 năm 1980, khi đang nằm trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha của Thanh Hải đối với vẻ đẹp của đất nước khi vào xuân, ước muốn hiến dâng trọn vẹn cuộc đời của mình cho quê hương, đất nước.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Nhà thơ đã gợi tả ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên thơ mộng với hình ảnh bông hoa tím. Giữa một dòng sông êm đềm, xuất hiện một bông hoa màu tím mang vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu tạo sự ngạc nhiên, thích thú khi nhà thơ biết rằng đất trời đang vào xuân. Sự kết hợp giữa hai màu sắc: tím, xanh làm hiện lên một bức tranh thật đẹp và hài hòa. Trên nền bức tranh tĩnh động ấy là sự chuyển động của sự vật và con người:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Ở đây, ta có thể thấy hình ảnh bức tranh thiên nhiên được mở ra một cách rõ nét hơn, từ chiều dài của dòng sông đến chiều cao của bầu trời. Tiếng hót của chim chiền chiện vang lên cả một vùng trời, như lan tỏa tới con người sức sống mãnh liệt của tự nhiên. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Tôi đưa tay tôi hứng” cho thấy cái nét đặc sắc, nét độc đáo trong thơ của Thanh Hải. Âm thanh vốn là thứ chỉ nghe được, không nhìn thấy và nắm bắt được. Vậy mà nó lại hóa thành từng giọt long lanh, nhà thơ có thể hứng trọn những âm thanh ấy trong lòng bàn tay của mình. Động từ “hứng” cho thấy sự trân trọng, nâng niu của tác giả đối với những âm thanh của cuộc đời. Đó hẳn là thứ âm thanh tươi vui, rộn rã nhất khi xuân về.
Khép lại khổ thơ đầu với cảm nhận của tác giả khi mùa xuân tới, ta thấy ở khổ thơ thứ hai, mùa xuân hiện ra rõ nét hơn qua hình ảnh người lao động:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Hình ảnh mùa xuân được tác giả lồng ghép trong công cuộc sản xuất và chiến đấu của dân tộc ta. Cả đất nước với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Người lính khoác trên vai màu áo xanh, cũng đồng thời khoác lên mình màu xanh của mùa xuân, khoác lên mình sức sống mạnh mẽ của mùa xuân để bảo vệ Tổ quốc. Còn đối với người nông dân, nơi làm việc của họ là ở ruộng đồng, họ đã cống hiến toàn bộ sức lực và sự chăm chỉ của mình để làm nên mùa xuân tươi đẹp cho đất nước. Ở nơi đó có đồng lúa chín vàng, có những cành lá đâm trồi nảy lộc. Lộc non, chồi biếc là sự tốt tươi, tràn trề sức sống của mùa xuân. Cả đất nước đang hăng hái làm việc trong khí thế khẩn trương nhất:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Điệp từ “tất cả”, cùng với các từ láy “hối hả”, “xôn xao” cho thấy toàn bộ người dân Việt Nam đang chung sức xây dựng một nền kinh tế, sản xuất mới để đất nước đi lên và phát triển. Dải đất hình chữ S của chúng ta đã từng có một quá khứ hào hùng trước khi có hiện tại:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Bốn nghìn năm là quãng thời gian tồn tại của đất nước. Đó là một quãng thời gian rất dài với bao thế hệ đã đi qua. Nhà thơ thể hiện lòng biết ơn của mình với những thế hệ đi trước, những người đã vất vả, nỗ lực, đổ mồ hôi và xương máu để đất nước có được như ngày hôm nay. Trong những gian lao, đất nước vẫn cứ đi lên “Đất nước như vì sao”. Đây là một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp, một vì sao sáng chói trên bầu trời gợi tả một đất nước Việt Nam đẹp đẽ, giàu mạnh với khí thế hào hùng. Dân tộc ta sẽ viết tiếp trang sử vàng chói lọi ấy.
Trong những năm tháng cuối đời phải nằm trên giường bệnh, nhà thơ Thanh Hải muốn được hóa thân để cống hiến cho đất nước:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Điệp từ “Ta làm” thể hiện khao khát cháy bỏng, ước muốn mãnh liệt của nhà thơ Thanh Hải muốn được cống hiến cho cuộc đời. Nhà thơ nguyện hóa thân thành con chim, để được cất tiếng hát yêu đời mỗi buổi sớm mai khi đất nước tỉnh dậy. Nhà thơ muốn làm một cành hoa tỏa hương thơm ngát cho cuộc đời, để vẻ đẹp của nó khiến cho người ta say mê. Và cuối cùng, nhà thơ muốn hòa vào bài ca của dân tộc, nhưng Thanh Hải chỉ nguyện làm “Một nốt trầm” trong biết bao những nốt cao đẹp đẽ của cuộc đời. Ước muốn khiêm nhường của nhà thơ được thể hiện ở chỗ ông chỉ muốn cống hiến cho đất nước trong thầm lặng, là một nốt trầm nhỏ bé nhưng cũng đủ làm xao xuyến, lay động lòng người.
Và Thanh Hải muốn cống hiến cho đất nước bất cứ khi nào ông còn có thể:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nhà thơ tự cho rằng cuộc đời của ông chỉ là một “Mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân lớn của dân tộc, để ông được cống hiến trong âm thầm, lặng lẽ. Điệp từ “dù là” cho thấy tinh thần lạc quan, khí thế hào hùng, bất khuất của nhà thơ. Dù là trong hoàn cảnh nào, ông cũng nguyện vì đất nước mà cống hiến hết mình.
Toàn bộ bài thơ là mong muốn mãnh liệt cùng khát khao cháy bỏng của Thanh Hải dành cho cuộc đời. Đọc từng khổ thơ, ta mới thấy thêm yêu cuộc sống, thêm biết ơn những con người thầm lặng hy sinh vì đất nước như nhà thơ. Mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng cuộc sống, biết sắp xếp quỹ thời gian của mình để sống một cuộc đời thật ý nghĩa và hạnh phúc. Đó chính là thông điệp mà nhà thơ Thanh Hải muốn gửi gắm đến bạn đọc qua bài thơ.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Thanh Hải (1930 – 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
– Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam thời kỳ đầu.
2. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.
2. Thể thơ
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” thuộc thể thơ năm chữ.
3. Bố cục
– Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thien nhiên đất nước
– Khổ 2+3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước
– Khổ 4+5: Ước nguyện của tác giả
– Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế
4. Tóm tắt
Bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của tác giả được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
5. Phương thức biểu đạt:Tự sự, biểu cảm
6. Thể thơ:
Ngũ ngôn (5 chữ)
7. Giá trị nội dung
– Bài thơ là tiếng lòng yêu mến và gắn bó thiết tha với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn được cống hiến, đóng góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn lao của dân tộc. Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.
8. Giá trị nghệ thuật
– Thể thơ năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca
– Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm
– Nhiều so sáng và ẩn dụ sáng tạo
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)