Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài được TaiLieuViet.vn tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

I. Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ

Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài

a. Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra

Cô gái xinh đẹp và tài hoa: có tài thổi sáo làm biết bao chàng trai phải si mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị.

Có một tình yêu trong sáng: Một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hẹn hò của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay thấy có đeo nhẫn.

Cô gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình.

b. Khi Mị về làm dâu gạt nợ nhà thống lí

Mị bị bắt cóc về làm dâu để trừ số nợ của bố mẹ

Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.

Họ nhốt Mị vào buồng, cúng ma làm dâu.

Mị lâm vào một tình cảnh éo le, bất hạnh, bị tròng bởi dây trói “con nợ bắt buộc” và “con dâu bị ép buộc”.

→ Mị bị đàn áp bởi hủ tục lạc hậu, bị áp bức bởi hai thế lực cường quyền và thế quyền.

Tâm trạng Mị trong những ngày đầu làm dâu:

Buồn tủi, đau khổ, rất đơn độc và thấm thía nỗi đau của một người con gái bị cướp đoạt.

Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc.

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi,… cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.

Trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, định tìm cái chết để tự giải thoát mình nhưng vì lòng hiếu thảo, thương bố nên Mị đã cố gắng chịu đựng, dũng cảm quay trở về nhà thống lí.

→ Mị vô cùng phẫn uất, đau khổ, Mị phản khán một cách dữ dội.

Tâm trạng Mị những ngày sau:

Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.

Mị sống lầm lũi, âm thầm, trở thành người nô lệ cam chịu, nhẫn nhục đến mức tê liệt cả ý thức, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh.

Mị tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa… ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi mà thôi. Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế.

Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.

Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

Mị sống cuộc sống lặng lẽ, âm thầm, không sinh khí với những dấu hiệu sự sống mất dần trong cô: không nói, không cười, không nhớ, chỉ buồn rười rượi,…

Không gian: Trong các làng Mông Đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn, sức sống của Mị tưởng đã bị hoàn cảnh hủy hoại, vùi lấp, nay đã trỗi dậy: Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị cứ lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Tiếng sáo, hương rượu ngà say, tiếng người hát đồng đã đưa Mị sống, nhớ lại quá khứ êm đẹp thời thiếu nữ trẻ trung, yêu đời. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.

Tai Mị văng vẳng nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng… Mị thấy vui sướng, phơi phới, tràn đầy sức sống nhưng cũng đau đớn, tuyệt vọng nghĩ đến cái chết để khỏi đối diện với thực tại. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.

→ Tâm trạng tưởng như mâu thuẫn nhưng hợp lý thể hiện sự khám phá, cái nhìn biện chứng vào cõi sâu tâm hồn để khái quát quy luật tâm lí con người.

Trong tiếng sáo rập rờn, Mị hành động thật khỏe khoắn, dứt khoát chứ không buồn và đau khổ để chuẩn bị đi chơi. Bây giờ Mị cũng không nói. (Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách.)

Mị bị A Sử đàn áp thô bạo (A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa)

Trong bóng tối, Mị không nói… Mị đứng lặng không biết mình đang bị trói. Hơi rượi nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng một con ngựa… Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi).

Sáng tỉnh dậy, Mị cảm giác sợ và đau đớn khi nghĩ về thân phận mình.

→ Không khí đêm tình mùa xuân trên bản Mèo và tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức sức sống, lay tỉnh tâm hồn Mị. Dù bị chà đạp nhưng sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị vẫn không bị lụi tắt. Tâm trạng Mị phức tạp với những xung đột giằng xé diễn ra âm thầm, đau đớn trong cõi tâm tư giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng đang trỗi dậy mạnh mẽ và thực tại tàn bạo, lạnh lùng.

d. Tâm trạng của Mị khi giải thoát cho A Phủ

Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình: “Mị trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đã bò xuống hai hõm má đã xám đen lại; Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.”

Mị với thái độ căm phẫn, nhận thức rõ bản chất độc ác của bọn thống lí Pá Tra: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đền chết, nó bắt mình cũng chết thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng trong cái nhà này; Chúng nó thật độc ác; Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết”.

Sức sống cùng sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát mình.

Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra bảo là Mị đã cởi trói cho nó làm sao Mị không thấy sợ, rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ.

→ Sức sống luôn tiềm tàng trong tâm hồn Mị dẫn đến sức phản kháng mãnh liệt, táo bạo để giành lại tự do ở Mị. Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn con người được hồi sinh, nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ mẫu 2

Đặt vấn đề

Có lẽ Tô Hoài là nhà văn đã từng có sự gắn bó sâu sắc với đất và con người Tây Bắc, ông đã từng phải thốt lên rằng: “đất và người Tây Bắc đã để thương để nhớ trong tôi nhiều quá”. Chính bởi nỗi niềm đó, ông đã dành riêng một tập truyện viết về núi rừng Tây Bắc đó là tập “truyện Tây Bắc”. Vợ chồng A phủ là một trong những câu chuyện được rút trong tập đó. Có thể nói tình yêu thương Tây Bắc được Tô Hoài gửi trọn vẹn trong nhân vật Mị.

Phân tích

1. Trước khi về làm dâu

Mị được coi là một cô gái với khá nhiều đức tính tốt. Cô là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, từ khi sinh ra cô cô đã phải gánh trong mình những món nợ, món nợ về cường quyền và món nợ về thân quyền đè nặng lên vai cô.

Có lẽ yêu tây bắc như nào thì Tô hoài gửi gắm tình yêu vào nhân vật Mị bất nhiều, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người đàn bà. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Cô cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và hiệu gỗ vách hẹn hò.

Bên cạnh vẻ đẹp tài năng trong con người Mị thì bản chất của một người lao động chân chính vẫn không mất đi trong con người Mị. Cô vẫn là một cô gái của bản làng, của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ. Mặc dù vậy cô vẫn luôn yêu đời và yêu tự do, không ham giàu sang phú quý, cô đã từng nói, từng xin bố rằng “bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”.

Tuy nhiên, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, cô không thể tự quyết định cuộc đời của mình được. Mị đã phải bước chân về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con mà như thân phận nô tì để gạt nợ cho cha.

2. Mới về làm dâu

Đang là một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc và tươi sáng nơi tương lai, Mị như chết đứng với số phận tại đây. Về nhà thống lý Pá tra làm dâu gạt nợ, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau “có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Cô sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống thật không đáng sống. Đã nhiều lần Mị có ý định như vậy, cô vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về quy lạy bố để chết. Nhưng bởi vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mẹ mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng hạnh phúc của cuộc đời mình vậy. Mị đã coi việc làm dâu con trong nhà thống lý pá tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa.

3. Khi làm dâu đã quen

Người ngoài không biết nhìn vào Mị nghĩ Mị được làm dâu trong nhà giàu có chắc cuộc sống hạnh phúc và sung sướng lắm. Tuy nhiên thực tế, thân xác và tinh thần của Mị luôn bị hành hạ. Thời gian và công việc đã làm tê liệt tinh thần của cô, hàng ngày vẫn là công việc đó, bên cạnh chuồng ngựa khiến tinh thần Mị bị tê liệt. Mị đã quen dần với cái khổ cực nơi đây.

Mấy năm sau bố Mị mất, giờ thì cô không còn nghĩ đến cái chết nữa “ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”.

  • Sức sống của Mị trỗi dậy: khi mùa xuân trời đất đến
  • Diễn biến tâm lý, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân

=> Khát vọng sống, niềm khao khát hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là không nhỏ nhưng sức mạnh tiềm tàng mới là điều quyết định sức sống của Mị.

  • Cứu a phủ và cùng nhau chạy trốn: thương tình cho số phận của một người nghèo khổ cũng như mình, Mị cùng cứu a phủ chạy trốn.
  • Diễn biến tâm trạng của Mị
    • Dửng dưng thổi lửa hơ tay không quan tâm đến A phủ
    • Dòng nước mắt của A Phủ vô tình mà đầy hữu ý đã làm hồi sinh trái tim đầy thương tích của Mị.
    • Mị chạy theo Aphủ, hành động tự giải thoát khỏi sợi dây trói vô hình của thần quyền. Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng làn này đã giúp Mị đập tan sức mạnh của thần quyền và cường quyền để tự giải.

Kết bài

Khác với hoàn cảnh trong đêm tình mùa xuân lần này Mị không chỉ có một mình đơn độc. Cả A Phủ và Mị đều là những người giàu sức sống, khi sức sống tiềm tàng trong mỗi cá nhân tỏa sáng và kết hợp với nhau sẽ tạo thành sức mạnh giải phóng cho người, khi sự đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ kết hợp với ý thức phản kháng đấu tranh tạo thành sức mạnh đấu tranh giai cấp thì sức sống trong mỗi cá nhân sẽ được nhân lên bội phần tạo ra những kết quả bất ngờ mà tất yếu. Mấy câu cuối đoạn văn A Phủ nói: “Đi với tôi ! Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” như chấp chới như cánh chim bay mở đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá, đời người đàn bà ở nợ cất mình khỏi nấm mồ tăm tối, đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.

Video tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

II. Văn mẫu Phân tích hình tượng nhân vật Mị

Phân tích nhân vật Mị mẫu 1

Giai đoạn kháng chiến, bên cạnh những tác phẩm ngợi ca nhân cách, chiến công của người lính; số phận lầm than của người dân cũng là mảng đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm. Trong đó có Tô Hoài với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn, ta sẽ thấy được thực trạng xã hội thối nát cũ, đồng thời cảm thông, trân trọng vẻ đẹp con người luôn vượt lên trên mọi nghịch cảnh để sống, hướng tới cái thiện.

Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền. Các tác phẩm của ông luôn có vốn ngôn ngữ phong phú và lối trần thuật tự nhiên. Truyện ngắn của Tô Hoài hấp dẫn, sâu sắc người đọc với cách kể chuyện tự nhiên, đời thường. Các tác phẩm của ông luôn mang màu sắc tươi sáng, thiên thiên đẹp đẽ, con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nổi bật với những đức tính đáng trân trọng.

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách văn chương của Tô Hoài. Tác phẩm đề cập tới những con người Tây Bắc dù trong hoàn cảnh khó khăn, khốn cùng thì vẫn luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Họ đã dũng cảm đứng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị, giải phóng tự do cho chính bản thân mình. Nhân vật Mị trong tác phẩm là biểu tượng cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ, luôn sẵn sàng vùng lên khi bị chà đạp, áp bức.

Trước hết, tác giả Tô Hoài đã khắc họa nhân vật Mị hiện lên với quá khứ tươi đẹp. Cô vốn là con người có những phẩm chất tốt đẹp, chỉ vì hoàn cảnh mà buộc phải thay đổi. Mị đã là một cô gái người Mông trẻ trung, ngây thơ, hồn nhiên trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Cô được miêu tả có tài thổi sáo, “thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Đã có biết bao nhiêu người mê tiếng sáo ấy của Mị mà say đắm, muốn được kết duyên.

Mị cũng là một cô gái bình thường như biết bao cô gái khác, biết yêu, từng yêu và từng được yêu. Cô luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu để nắm lấy hạnh phúc cho mình. Không những thế, Mị còn rất hiếu thảo, thương yêu mẹ cha. Cô chăm chỉ, chịu khó, ý thức mạnh mẽ giá trị của cuộc sống tự do. Vì thế nên Mị đã sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố, không muốn phải chịu cảnh tù đày, gán nợ.

Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu đã dập tắt tương lai tươi sáng của cô gái còn chưa đến tuổi đôi mươi ấy. Mị bị bắt về làm vợ A Sử, con trai nhà thống lí Pá Tra. Khi bị bắt về làm dâu, cô đã bị “cúng trình ma” nhà thống lí. Kể từ đó, kiếp làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động đã bắt đầu. Số phận của Mị lúc này “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Mị đã bị đày đọa nơi địa ngục trần gian với những trận đòn roi, bị đánh, bị phạt, bị trói, … ngày này qua tháng khác, không thể nào vùng vẫy thoát ra.

Đối diện với cuộc sống bị chà đạp ấy, Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau. Nếu có ai đến nhà thống lí, chắc hẳn sẽ thấy một cô gái lúc nào cũng cúi mặt “mặt buồn rười rượi” dù là quay sợi, thái cỏ ngựa, hay làm bất cứ công việc gì. Mị đã không còn quan tâm đến thời gian nữa, gian phòng của cô chỉ có một “lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra chỉ thấy một màu trăng trắng, không biết là sương hay nắng”. Khi con người đã không còn nhận thức về thời gian, không gian, tức là khi đó đã vô cùng tuyệt vọng, phó mặc cho số phận của mình. Và Mị có lẽ đã sống mãi như thế, cứ lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô thậm chí còn không muốn tự kết liễu bản thân, cứ sống mãi mà vô định Và bởi vì “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô gái trẻ trung, hồn nhiên xưa kia như cái xác không hồn, không còn chút thiết tha với cuộc sống này.

Ngỡ tưởng rằng mọi sự đày đọa về cả thể xác lẫn tâm hồn sẽ làm Mị dần chai sạn. Thế nhưng ở sâu trong tâm khảm, Mị vẫn luôn có một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Trước hết, khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ, Mị đã có ý định tự tử bằng lá ngón. Lựa chọn cái chết thay vì phải chịu cảnh ngục tù, cô không chấp nhận cuộc sống mất tự do, không thể làm chủ số phận. Đó là sự phản kháng mạnh mẽ, dứt khoát ở một cô gái tưởng chừng yếu đuối, nhỏ bé.

Sức sống tiềm tàng của Mị, sau những năm tháng sống như một con vật, trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài đã trỗi dậy mạnh mẽ. Những âm thanh của cuộc sống bên ngoài với tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình như ùa vào tâm trí Mị. Nó đã đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của cô, khiến cô như được hồi sinh. Nghe tiếng hát, tiếng sáo, Mị đã lẩm nhẩm lời bài hát. Khi đó, dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tâm hồn cô như đã trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu và hạnh phúc len lỏi trong tâm trí, khiến Mị muốn được tự do. Cô đã ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tô Hoài đã sử dụng một loạt các câu độc thoại nội tâm để giúp người đọc thấy được sự hồi sinh diệu kì của nhân vật.

Tiếp theo đó, Tô Hoài đã khắc họa Mị nổi bật lên với tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Nếu như trước kia, ánh sáng duy nhất trong căn phòng của cô chỉ là ánh nắng, ánh sương qua ô cửa nhỏ; thì giờ đây Mị đã lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối tăm, chật hẹp. Thắp sáng lên căn phòng, cũng chính là thắp lên niềm tin nhỏ bé trong tâm hồn mình. Sau đó, nhân vật đã nổi loạn hơn, muốn được “đi chơi Tết” để có thể chấm dứt sự tù đày và những tháng ngày tẻ nhạt.

Không được đi chơi, thậm chí còn bị trói lại, thế nhưng giờ đây Mị không còn thẫn thờ như mọi lần nữa. Lúc này, tâm trí của cô vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đôi lứa đến những cuộc vui ngoài kia. Trong vô thức, Mị đã vùng dậy, muốn thoát khỏi sự trói buộc, cầm tù ấy. Tâm hồn một khi đã được thức tỉnh, sẽ không bao giờ buông bỏ nữa. Cái khao khát tự do ấy cứ cháy mãi trong trái tim nhân vật, âm ỉ thắp lên hi vọng mãnh liệt được sống, được làm chủ số phận của mình. Nó chỉ trực chờ để có cơ hội bùng lên một cách mạnh mẽ và dứt khoát.

Và sức sống tiềm tàng ấy đã một lần nữa được khơi dậy trong lòng Mị khi thấy A Phủ bị phạt trói đứng. Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã đồng cảm sâu sắc với anh. Cô chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ cũng đã biết bao nhiêu lần phải chịu cảnh đòn roi, tra tấn như vậy. Giờ đây, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.” Và chính suy nghĩ bất bình trước tội ác dã man của bọn thống lí ấy, Mị đã cắt dây cởi trói, giải thoát cho A Phủ. Trong một giây phút, ta ngỡ tưởng Mị sẽ lại phó mặc số phận, sẵn sàng chịu trừng phạt vào ngày mai khi sự việc bại lộ. Thế nhưng cô đã sợ cái chết, sợ phải sống tiếp những ngày ngục tù với nỗi khổ đau dài dặc trong nhà thống lí, Mị đã chạy theo A Phủ, tìm lối thoát vượt ra khỏi cái địa ngục trần gian này. Qua những lần phản kháng từ âm thầm đến mạnh mẽ ấy, ta thấy được một cô gái nhỏ bé nhưng lại có sức sống tiềm tàng, sẵn sàng trỗi dậy, vượt ra khỏi định kiến và những hủ tục trói buộc. Mị đã đứng lên, đạp đổ cả cường quyền lẫn thần quyền của bè lũ thống trị miền núi. Đây chính là vẻ đẹp rất đáng trân trọng của con người trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt.

Với lối kể chuyện hấp dẫn, hình ảnh thú vị, ngôn ngữ đậm chất đời thường, Tô Hoài đã tái hiện được xã hội rối ren, đầy áp bức lúc bấy giờ. Đồng thời đồng cảm, ngợi ca con người với những phẩm chất đáng trân trọng, luôn vượt lên trên nghịch cảnh để sống, tự do và tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.

Phân tích hình tượng nhân vật Mị mẫu 2

  • Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
  • Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)
  • Số phận người phụ nữ xưa và nay qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.

Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ. Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.

Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí.

Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.

Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”.. Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”. Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.

Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát:

“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.

Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của một thời tươi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao hiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ.

Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình.

Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử – con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí. Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính mình. Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói thay vào chỗ của A Phủ. Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và phu quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị áp chế của Mị.

Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.

Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ đạt 10

Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi “xưa nay hiếm”, ông đã có trên 100 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ, viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. “Dế Mèn phiêu lưu kí”, “Truyện Tây Bắc”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Miền Tây”, v.v… là những tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích.

Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài hơn nửa năm. Ông đã viết truyện “Vợ chồng A Phủ”, qua đó nói lên sự thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến.

Truyện gồm có 2 phần: 1, Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; 2, Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất, khi tác giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị. Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất đã lâu rồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị. Năm nào hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra.

Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đèm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị thằng A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”.

Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy… Bố Mị đã già, đã khổ lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như một nụ hoa xuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”. Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.

Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô cảm vô hồn, ngày “càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”. Hình ảnh Mị cuối mặt quay sợi đây bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiều thương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ – con dâu gạt nợ!

Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố “úp mặt xuống đất, nức nở”. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu qua rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ?

Mị không nỡ chết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”. Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng.

Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ. Tết lại đến, ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng sáo vọng lại, Mị “thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:

“… Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt… Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên “vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu và hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”.

Có biết bao người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị cay đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm cho lòng Mị bồi hồi:

“Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi”.

Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa… Những hành động ấy diễn ra ngay trước mắt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mi “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”.

Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thằng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào có thể làm lụi tàn được, vùi dập được nỗi khát khao trong người phụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ.

Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trong buồng như người đàn bà nọ. Mị mỗi ngày một tê dại hẳn đi. Đêm mùa đông ở vùng núi Hồng Ngài dài và lạnh. Mị buồn chỉ chợp mắt được từng lúc, rồi lại thức sưởi ấm suốt đêm. Mị sống trong tâm trạng cô đơn “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Mị và A Phủ như hai số kiếp tiền định cùng trải qua bao đau khổ dập vùi.

A Phủ, một kẻ tứ cố vô thân, vì tội đánh con quan mà bị đánh trói, bị làng bắt phạt vạ 100 đồng bạc trắng, trở thành người vay nợ, kẻ ở nợ, phải làm con trâu con ngựa cho nhà thống lí , “đời mày, đời con, đời cháu” của A Phủ cũng phải thế! Hoạ vô đơn chí! Rừng động, A Phủ đi chăn bò, để hổ kéo về bắt mất một con.

Thống lí Pá Tra mắng chửi A Phủ là “quân ăn cướp làm mất bỏ tao”! Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc bằng một cuộn dây mây đến chết nếu không bắt được hổ về! Bị trói đứng suốt mấy ngày đêm, hai hõm má của A Phủ đã “xám đen lại”. Nửa đem, qua ánh lửa, Mị “lé mắt trông sang” thấy kẻ chịu nạn, rồi xúc động nghĩ: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là ngườ kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.

Rồi Mị thương thân phận mình, thương người đàn bà ngày trước bị trói đến chết ở nhà này! Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng vào cái cọc ấy một khi A Phủ trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng không thấy sợ…”. Bếp lửa tàn, nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh. Mị đã dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ.

Một cảnh dữ dội, khủng khiếp diễn ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi ngay!”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị băng đi nói thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi!… ở đây thì chết mất!”. A Phủ chỉ kịp nói với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ dìu đỡ nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hôm ấy, đêm gì?”. Đó là cái đêm hãi hùng mà rất đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.

Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa thương mình, vừa thương người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời mình. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt đứt sợi dây oan nghiệt đã biến con người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm tàng kì lạ!

Nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ” là một thành công của Tô Hoài. Mị là một cô gái duyên dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính cách Mị dược miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết khóc, Mị ăn lá ngón… Mị lầm lũi…

Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng reo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.

Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”. Từ tủi nhục cay đắng của kiếp con dâu gạt nợ, Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị cuộc đời ấy thật đáng quý và sáng giá biết bao! Tô Hoài đã dành cho nhân vật Mị sự cảm thương sâu sắc đầy tình người.

Phân tích nhân vật Mị mẫu 4

Trẻ em Việt Nam không ai là không biết đến nhà văn Tô Hoài. Bởi tập truyện “Dế mèn phiêu lưu kí” đã nổi tiếng và gắn liền với tên tuổi của ông. Ông là một trong những nhà văn hiện thực sớm đi đến với cách mạng. Và một trong những tác phẩm xuất sắc của ông trong thời kỳ kháng chiến khốc liệt đó là ” Vợ chồng A Phủ”.

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi tham gia chiến dịch Tây Bắc của tác giả, ra đời vào năm 1952 in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Một trong những thành công của Tô Hoài trong truyện ngắn này là xây dựng nhân vật Mị đại diện cho cuộc sống cơ cực, tủi nhục của người phụ nữ dưới ách thống trị của phong kiến và bọn chúa đất nơi miền núi.

Ngay từ những dòng đầu của truyện, nhà văn đã để Mị xuất hiện một cách u buồn. “Ai ở xa về có qua nhà thống lí Pá Tra”, cũng thấy một người phụ nữ “ngồi bên tảng đá”, “cạnh tàu ngựa”, “mặt cúi buồn rười rượi”. Tác giả đặt Mị đối lập với mọi thứ xung quanh và tập trung miêu tả ngoại hình của cô. Cô ngồi bên tảng đá trơ trọi chai lì, số phận khổ nhục như kiếp trâu ngựa đối lập với sự giàu có, tấp nập của nhà thống lí. Chỉ bằng vài câu văn, Tô Hoài đã gợi ra một số phận khổ đau nhẫn nhục, éo le trước mắt người đọc. Và từ sự xuất hiện ấy tác giả kể về cuộc đời cơ cực, khổ đau của cô.

Ở Mị trước hết là tài năng, lòng hiếu thảo và có lòng tự trọng. Trước khi về làm dâu cho nhà thống lí, Mị là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi lá hay hơn thổi sáo. Trong những đêm tình mùa xuân “trai trong làng đứng nhẵn cả đầu buồng Mị”. Không chỉ thế, cô còn là người con hiếu thảo, chăm chỉ và có lòng tự trọng. Nhà Mị nghèo, bố mẹ Mị có món nợ với nhà thống lí. Nhưng khi biết tin mình phải làm dâu nhà thống lí thì cô không hề mong muốn. Từ trước tới nay cô luôn làm nương để trả nợ cho cha mình. “Con nay đã lớn biết cuốc nương làm ngô, cha đừng bán con cho nhà giàu”. Cô hiếu thảo, thương cha. Nhưng rồi cô cũng bị A Sử bắt về làm vợ. Chỉ vì món nợ truyền kiếp ấy mà Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Mị vừa là con nợ, vừa là con dâu. “Mấy tháng đầu đêm nào Mị cũng khóc”. Với nắm lá ngón trong tay, Mị về lạy cha để chết nhưng nợ chưa trả hết, Mị thương cha không thể chết được. Lòng hiếu thảo không cho phép Mị tự kết thúc cuộc đời mình. Cũng vì lòng hiếu thảo ấy mà Mị chấp nhận cuộc đời cơ cực của mình tại nhà thống lí Pá Tra.

Bị bắt về làm dâu gạt nợ, danh nghĩa là dâu nhưng thực chất Mị đã trở thành một nô lệ không công cho nhà thống lí. Mị bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần. Mị phải làm việc cả ngày lẫn đêm khổ hơn cả kiếp trâu ngựa ” con trâu con ngựa đêm nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi đầu làm việc cả ngàu lẫn đêm”. Căn buồng nơi Mị ở không khác gì một ngục tù “chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Chính hoàn cảnh này đã khiến cho Mị thay đổi. Người con gái tài hoa xinh đẹp ngày nào đã trở nên lầm lì, chai sạn về mặt cảm xúc. ” Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa”. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”. Cuộc sống tăm tối khổ cực đã khiến Mị bị tê liệt về tinh thần. Điều này được thể hiện rõ nhất trong mấy đêm đầu A Phủ bị trói đứng. Mị thấy A Phủ bị trói nhưng không một chút mảy may quan tâm. Đối với Mị chuyện người nhà thống lí bị trói đứng thế kia cũng chẳng có gì là lạ nên Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi lửa trong đêm giá lạnh ở vùng cao này. “A Phủ có là cái xác chết cũng thế thôi”.

Mặc dù bị tê liệt tinh thần nhưng ở đâu đó trong tâm hồn Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều đó thể hiện rõ nét trong diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Với cảnh sắc thiên nhiên rực rỡ, rộn rã của ngày Tết cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha bổi hổi cùng men say của rượu đẫ khiến Mị dần dần thay đổi tâm trạng. Mị nhớ về kỉ niệm ngày xưa. Mị thấy ” lòng đột nhiên phơi phới trở lại”. Mị ý thức được “mình còn trẻ lắm”. Tiếng sáo tha thiết mời gọi. Tất cả đã dẫn tới hành động Mị muốn đi chơi xuân. Men rượu nồng nàn đã thổi bùng lên ngọn lửa sức sống trong Mị. Dù bị chà đạp, nhưng sức sống của Mị vẫn như một đốm than nhen nhóm trong đống tro tàn chỉ chờ dịp bùng cháy. Mị không hề bị mất hết niềm ham sống của mình.

Không chỉ có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, Mị còn có một lòng đồng cảm với người cùng chung cảnh ngộ với mình. Niềm đồng cảm ấy ẩn kĩ trong tâm hồn Mị mà từ lâu nó đã bị chai sạn một phần. Nhưng không vì thế mà nó bị đánh mất. Niềm đồng cảm ấy phải được đánh thức. Và A Phủ chính là người đã đánh thức nó. Khi “hai hàng nước mắt bò trên hai gò má xám xịt” của A Phủ, Mị bắt đầu thức tỉnh. Mị nhớ lại cảnh mình bị trói rồi cô xót thương cho chính bản thân mình. Mị lại nhớ đến cảnh một người đàn bà hồi trước bị trói đến chết ở cái nhà này. Rồi Mị lại nhìn A Phủ. “Cơ chừng người này mai là chết, chết đau chết đói phải chết”. Lúc này Mị nhận ra tội ác của cha con thống lí “chúng nó thật độc ác”. Lòng đồng cảm với A Phủ ngày một tăng lên rồi nó lẫn át sự sợ hãi của Mị. Nó đã tạo ra một sức mạnh lớn để dẫn tới hành động, Mị cởi trói cứu A Phủ và chạy theo anh trốn thoát khỏi nhà thống lí. Chạy theo A Phủ là Mị chạy theo tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Khát khao tự do hạnh phúc đã đẩy bước chân Mị đi nhanh hơn để trốn thoát khỏi cái địa ngục nơi nhà thống lí. Chi tiết này đã thể hiện ngòi bút nhân đạo của tác giả.

Qua việc miêu tả số phận, Tô Hoài đã mang đến một cô Mị ngoan hiền hiếu thảo. Nổi bật trong con người cô là sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do hạnh phúc. Cô là nhân vật thể hiện rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đó chính là một trong những sức hút của “Vợ chồng A Phủ” đối với người đọc.

Phân tích nhân vật Mị mẫu 5

Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những vùng miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc, không chỉ khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu những đau thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây Bắc điển hình. Điển hình cho số phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị hiện thực và nhân đạo qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số phận người con gái tên Mị.

Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng kể thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu chuyện buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính là Mị nhưng tại sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là con dâu của nhà thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một công việc như vậy. những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng trông tư thế như vậy. Mị sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri vô giác. Như vậy có thể thấy hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô đang phải chịu tưởng rằng là con dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng không điều đó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời của Mị không bằng phẳng đầy uất ức và bi kịch của cõi nhân sinh.

Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng dưới chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?

Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi chỉ cần một chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy. không những thế Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người yêu, khi cha bị đe dọa rằng thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị có thể cuốc bẫm trồng ngô nên xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo đến như vậy tưởng chừng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái ngược với những gì mà người ta hay đoán.

Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và bắt về nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến nhưng A Sử đã đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào vách, Mị tưởng người yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà. Bắt đầu từ đấy cuộc sống của Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ. Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc sống của Mị không bằng một con ở, nếu như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không bao giờ được giải thoát.

Kiếp làm dâu gạt nợ có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời Mị. cô bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh thần phản kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ về cha và những lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay quay trở về nhà thống lý. Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình ma nhà chồng thì cả một đời đến khi chết chỉ có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết ngày tháng là gì “ Mị tủi thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ lao động đúng hơn là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những công việc được sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị cứ quay mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc bởi thần quyên và cường quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ”. Có thể nói những ngày tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị trói buộc và mất đi tinh thần phản kháng.

Thế nhưng khi những đêm tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản kháng trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã tác động đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc. con người Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc biệt là trai gái, họ rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến tâm hồn Mị, Mị thấy tâm hồn phơi phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:

“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không kém, mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm nhẩm theo lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cố uống ực từng bát như đang cố uống từng chén say chén đắng của số phận mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng xắn một ít mỡ cho đèn sáng lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số phận của Mị, Mị đã bừng tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho cô tưởng mình không bị trói, trong đầu tiếng sáo vẫn văng vẳng. Mị vùng bước đi nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị lên khiến Mị không nghiêng cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị ước “ nếu lúc này có nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng chúng ta đã thấy được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó dự báo cho một cuộc vùng dậy về sau.

Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại chuyện A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt được A Phủ và đánh đập anh tơi bời, đánh xong lại hút thuốc phiện. sau đó chúng trói anh vào một cái cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải gượng sức dậy đi lấy thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra tấn cô bằng những cái đạp vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hở lưng vào buổi đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó, nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào lau được. Mị thương mình rồi thương người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là một quyết định nguy hiểm nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị nghĩ mình đã cúng trình ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai mà phải chết. Mị cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện tinh thần phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thần quyền hủ tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã đến với Mị.

Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ Mông thời bây giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền hủ tục và cường quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng dậy đi theo cách mạng để chống lại những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được những nét văn hóa của người Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.

Mời bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ các bài văn mẫu nhé

—————————–

Để có kết quả học tập lớp 12 tốt nhất, mời các bạn làm thêm tài liệu lớp 12 năm 2022 – 2023 được TaiLieuViet sưu tầm, cũng như các đề thi được tải nhiều nhất của chúng tôi:

  • Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
  • Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
  • Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)
  • Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
  • Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Bài viết tổng hợp dàn ý và các bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.