Thuốc – Lỗ Tấn

Để học tốt Ngữ văn lớp 12, các bạn học sinh hãy tham khảo tài liệu: Thuốc, tài liệu đã được TaiLieuViet.vn tổng hợp đầy đủ nội dung và kèm theo những bài viết hay liên quan đến truyện ngắn giúp các em học sinh soạn bài lớp 12 hiệu quả hơn. Mời các em học sinh lớp 12 và thầy cô tham khảo.

Thuốc

I

Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc. Tầng không xanh thẳm. Ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ say cả. Lão Hoa Thuyên bỗng ngồi dậy, đánh diêm thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu. ánh đèn trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà.

– Bố thằng Thuyên đi đấy à?

Đó là tiếng một người đàn bà đã có tuổi. Ở buồng phía trong bỗng nổi lên một cơn ho.

– Ừ.

Lão vừa trả lời, vừa lắng tai nghe tiếng ho, vừa cài nút áo, rồi chìa tay ra, nói tiếp:

– Đưa đây tôi!

Bà Hoa sờ soạng một lúc lâu dưới gối, lấy ra một gói bạc đồng, đưa cho chồng. Lão cầm lấy, bỏ vào túi áo, tay run run, vuốt hai ba lần phía ngoài túi, rồi thắp cái đèn lồng, tắt ngọn đèn con, đi vào buồng phía trong. Buồng phía trong có tiếng động lạch cạch, tiếp theo là một cơn ho. Đợi cơn ho dứt, lão mới khẽ nói:

– Thuyên à! Con cứ nằm đấy! Công việc dọn hàng, để mẹ con lo cho.

Không nghe con nói gì, lão cho rằng nó đã yên tâm nằm ngủ lại rồi, bèn mở cửa đi ra. Bên ngoài, trời tối om, và hết sức vắng. Chỉ mặt đường xam xám là trông thấy rõ. Chiếc đèn lồng chiếu thẳng vào bàn chân lão bước đều đều. Thỉnh thoảng, gặp một vài con chó, nhưng chẳng con nào buồn sủa. Trời lạnh hơn trong nhà nhiều, nhưng lão cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh. Lão bước những bước thật dài. Trời cũng sáng dần và đường cũng càng lâu càng rõ.

Đang chăm chú bước, bỗng lão giật mình nhìn thấy ngã ba đường đằng xa, trước mặt. Lão quay lại, đi mấy bước tìm một cửa hiệu còn đóng kín mít, rẽ vào dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Một lúc lâu, lão thấy hơi lành lạnh.

– Hừ! Một ông già!

– Thích nhé!…

Lão lại giật mình, trố mắt nhìn. Có mấy người đi qua. Một người còn quay lại nhìn lão. Lão không trông thấy rõ là ai, nhưng thấy ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm. Lão nhìn chiếc đèn lồng. Đèn tắt rồi. Lão đặt tay lên túi áo. Gói bạc vẫn cồm cộm ở đấy. Ngước đầu nhìn xung quanh, lão thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng nhìn kĩ thì lại chẳng lấy gì làm quái lạ nữa. Một lát, lại thấy mấy người lính đi đi lại lại. Đằng xa cũng thấy rõ miếng vải trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau; khi họ đi qua trước mắt thì thấy cả đường viền màu đỏ thẫm trên chiếu áo dấu. Tiếng chân bước ào ào. Trong nháy mắt bao nhiêu người đi qua. Những người tụm năm tụm ba lúc này cũng dồn lại một chỗ, rồi xô nhào tới như nước triều, gần đến ngã ba đường thì bỗng đứng dừng lại, quây thành một nửa vòng tròn.

Lão Thuyên cũng nhìn về phía đó, nhưng chỉ thấy lưng người mà thôi. Người nào, người nấy rướn cổ ra như cổ vịt bị một bàn tay vô hình nắm lấy xách lên. Im lặng một lát. Bỗng hình như có tiếng động. Rồi cả đám xô đẩy nhau ào ào, lui về phía sau đến chỗ lão đứng, chen lão suýt nữa ngã.

– Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!

Một người áo quần đen ngòm đứng trước mặt lão, mắt sắc như hai lưỡi dao chọc thẳng vào lão khiến lão co rúm lại. Hắn xòe về phía lão một bàn tay to tướng, tay kia cầm một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Lão vội vàng móc gói bạc trong túi ra, run run đưa cho hắn, nhưng lại ngai không dám cầm chiếc bánh. Hắn sốt ruột, nói to:

– Sợ cái gì? Sao không cầm lấy?

Lão còn trù trừ, người mặc đồ đen giật lấy chiếc đèn lồng, xé toạc tờ giấy dán bên ngoài, bọc chiếc bánh lại, rồi nhét vào tay lão, tay kia thì giật lấy gói bạc, nắn nắn, rồi quay đi, miệng càu nhàu:

– Cái lão này?

– Chữa cho ai đấy?

Lão Thuyên nghe hình như có người nào hỏi, nhưng lão không trả lời. Lúc này, lão còn để hết tinh thần vào cái gói bánh như nhà mười đời độc đinh năng niu con, không chú ý đến gì nữa. Lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sung sướng biết bao! Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà lão, và cũng chiếu sáng cái bảng mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có đề bốn chữ nhiếp vàng đã bạc màu: Cổ… Đình Khẩu.

II

Lão Thuyên về đến nhà thì quán đã bày biện sạch sẽ, các dãy bàn trơn bóng sắp đặt ngăn nắp. Nhưng không có khách, chỉ có thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm ở cái bàn dãy phía trong, mồ hôi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép dính vào xương sống, hai xương vai gồ lên thành hình chữ “bát” in nổi. Thấy vậy, lão không khỏi chau mày. Bà Hoa từ trong bếp vội vã chạy ra chạy ra, giương to mắt nói, đôi môi run run:

– Có được không?

– Được rồi!

Hai người cùng trở vào bếp, bàn bạc một hồi. Bà Hoa lại đi ra, một lát cầm về một cánh lá sen già, trải lên mặt bàn. Lão cũng mở cái chao đèn, cầm chiếc bánh đẫm máu, lấy lá sen bọc lại. Thằng Thuyên đã ăn xong. Bà Hoa vội nói:

Cậu Năm gù đi vào. Cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán này, thường đến sớm nhất mà cũng về muộn hơn ai hết. Vừa đi vào, cậu ta liền ngồi vào cái bàn ở góc tường phía gần đường cái, hỏi ngay. Nhưng không ai trả lời.

– Rang cơm đấy à?

Vẫn không ai trả lời. lão Thuyên vội vàng chạy ra, pha trà cho cậu.

– Thuyên ơi! Vào đây con!

Bà Hoa gọi con vào nhà trong, giữa nhà đặt sẵn một chiếc ghế đẩu. Thuyên ngồi xuống, bà ta bưng một cái đĩa lại, trên đĩa có vật gì tròn tròn, đen thui, nói rất khẽ:

– Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay thôi!…

Thuyên cầm lấy vật đen thui, cầm trên tay, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận. Một làn hơi trắng bốc ra từ lần vỏ cháy sém. Làn hơi tan dần, mới thấy đó là hai miếng bánh bao bằng bột mì trắng. Không bao lâu, chiếc bánh đã mằn gọn trong bụng, mùi vị như thế nào cũng đã quen rồi. Trước mắt chỉ còm trơ lại chiếc đĩa không. Lão Thuyên đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực. Lại một cơn ho.

– Thôi con đi ngủ một giấc, sẽ khỏi ngay!

Thuyên nghe lời mẹ, vừa ho vừa nằm xuống. Đợi nghe tiếng thở dìu dịu, bà Hoa mới nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.

III

Quán trà đã đông khách. Lão Thuyên cũng bận, tay xách chiếc ấm đồng lớn, đi đi lại lại, pha trà. Hai mắt lão thâm quầng. một người râu hoa râm nói:

– Ông Thuyên! Mệt phải không? Hay là ốm đấy?

– Có làm sao đâu!

Người râu hoa râm chữa lời:

– Không sao à? Ừ, nghe tiếng cười thì không ra người ốm.

– Chỉ vì ông ta lận đận quá! giá thằng con…

Cậu Năm chưa dứt lời thì một người mặt thịt ngang phè từ ngoài đâm sầm vào. Hắn mặc một chiếc áo vải màu huyền không gài khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quấn ở ngoài, xộc xệch. Vừa vào, đã nói oang oang:

– Đã ăn chưa? Đỡ rồi chứ? Ông Thuyên này! May phúc cho ông đấy nhé ! Phúc nhà ông, đấy là nhờ tôi biết tin sớm…

Lão Thuyên một tay xách ấm trà, một tay buông xuống, vẻ cung kính, cười hề hề, lắng tai nghe hắn nói. Cả quán cũng cung kính lắng tai nghe hắn nói. Bà hoa mắt cũng thâm quầng, tươi cười, mang đến trước mặt hắn một cái chén, bỏ một nhúm trà và thêm một quả trám. Lão Thuyên liền đem nước sôi lại pha.

Người mặt thịt ngang phè vẫn nói oang oang;

– Cam đoan thế nào cũng khỏi. Thứ thuốc này đặc biệt lắm. Ông tính lấy về còn nóng hôi hổi, và ăn cũng nóng hôi hổi.

Bà Hoa cám ơn hắn hết lời:

– Thật đấy! Không có bác Cả Khang đây giúp thì đứng có hòng…

– Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!

Bà Hoa nghe nói “lao”, sắc mặt hơi đổi khác, ý không được vui, có điều cũng gượng cười, bỏ đi, ngượng nghịu. Nhưng bác Cả Khang không để ý đến, cứ giương cổ nói oang oang đến nỗi thằng Thuyên nằm ngủ trong nhà cũng phải ho lên như phụ họa theo.

– Ừ thằng Thuyên nhà ông may phúc thật! Nhất định khỏi thôi mà! Chẳng trách ông cứ cười cả ngày!

Người râu hoa râm vừa nói vừa đi lại trước mặt bác Cả Khang, hạ thấp giọng nói:

– Bác Cả này! Nghe nói tên phạm chém hôm nay là người họ Hạ. Con nhà ai đấy nhỉ? Tội gì thế hở bác?

– Con nhà ai nữa? Con nhà bác Tứ chứ con nhà ai? Thằng quỷ sứ!

Bác Cả Khang thấy mọi người vểnh tai nghe, lấy làm thú lắm, những thớ thịt trên mặt nổi từng cục. Bác ta cao hứng nói to:

– Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi. Lần này tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra, cũng lão Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất. may nhất có thể nói là ông Thuyên nhà này, thứ đến là cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa, một mình bỏ túi tất chẳng mất cho ai một đồng kẽm!

Thằng Thuyên từ trong nhà đi ra, bước chậm chạp, hai tay ôm ngực, ho lấy ho để. Y vào bếp, xúc một bát cơm nguội, chan ít nước nóng, ngồi ăn. Bà Hoa bước theo con, khẽ hỏi:

– Thuyên! Con có đỡ tí nào không, con? Con vẫn cứ hay đói bụng thế à?

– Cam đoan khỏi mà!

Bác Cả Khang liếc nhìn thằng Thuyên một cái, rồi quay lại tiếp tục câu chuyên với mọi người:

– Cụ ba đến là khôn! Giá cụ ta không đem thằng cháu ra thú thì cả nhà mất đầu hết. Nay thì được bao nhiêu là bạc! Còn cái thằng nhãi con ấy thì chẳng ra cái thá gì hết. Nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề lao làm giặc!

Một anh chàng trạc hơn hai mươi tuổi ngồi dãy bàn sau, nghe nói tức máu:

– Ái chà chà! ghê nhỉ?

– Anh có biết không, lão Nghĩa mắt cá chép đến lân la hỏi dò hắn thì hắn bắt chuyện ngay. Hắn nói: Thiên hạ Mãn Thanh chính là của chúng ta. Thử nghĩ xem, nói thế mà nói được à? Lão Nghĩa mắt cá chép cũng biết nhà hắn chỉ có mụ mẹ già, nhưng không ngờ hắn lại nghèo gặm không ra đến như thế, đã tức anh ách rồi, thế mà hắn lại vuốt râu cọp, nên lão ta liền đánh cho hai bạt tai.

Cậu Năm Gù ngồi ở góc tường, nghe nói, thú quá:

– Lão Nghĩa là tay võ rất cừ, hai cái tát ấy cũng đủ để cho hắn xài đấy nhỉ!

– Cái thằng khốn nại! Đánh, có sợ đâu! Lại còn nói: Thật đáng thương hại, thật đáng thương hại!

Người râu hoa râm nói:

– Đánh cái đồ ấy thương hại cái gì?

Bác Cả Khang tỏ vẻ khinh bỉ, cười nhạt:

– Ông chưa nghe ra, xem bộ hắn lúc đó, thì hắn muốn nói: đáng thương hại, là lão Nghĩa đáng thương hại kia!

Mặt ai nấy bỗng ngơ ngác. Không ai nói gì cả.

Thằng Thuyên đã ăn cơm xong, mồ hôi ướt đầm, trên đầu hơi bốc phừng phừng.

Người râu hoa râm bỗng vỡ nhẽ, nói:

– Lão Nghĩa mà đáng thương hại à? Điên! Hắn điên thật rồi!

Anh chàng hai mươi tuổi cũng vỡ nhẽ:

– Điên thật rồi!

Khách trong quán lại nhao nhao, nói nói cười cười.

Thằng Thuyên lại thừa dịp ho cố mạng. Bác Cả Khang chạy lại, vỗ vai, nói:

– Thuyên à! Cam đoan thế nào mày cũng khỏi. Mày đừng ho như thế. Cam đoan thế nào cũng khỏi.

Cậu Năm gù nói:

– Điên thật rồi!

IV

Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa có con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái danh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người chết nghèo ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ.

Tiết Thanh minh năm ấy, trời lạnh lắm. Những cây dương liễu mới đâm ra những mầm non bằng nửa hạt gạo. Trời vừa dạng đã thấy bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp, bên phải đường mòn, một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi. Đốt xong thiếp vàng giấy, bà ta ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ như đang chờ đợi cái gì. Chính bà ta cũng chẳng biết bà ta chờ đợi cái gì nữa. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn của bà ta, so với năm ngoái chắc là bạc nhiều lắm rồi.

Lại một người đàn bà khác đi dọc đường mòn, tóc cũng bạc già nửa, áo quần rách rưới, tay xách chiếc giỏ tròn sơn đỏ, mũ nát, phía ngoài giắt thiếp vàng giấy, cứ đi ba bước, lại đứng dừng lại. Chợt thấy bà Hoa ngồi bệt giữa đất đang nhìn mình thì bà kia ngập ngừng không dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng hơi đỏ lên vì xấu hổ, nhưng rồi cũng đánh liều đi tới trước nấm mộ bên trái đường mòn, đặt chiếc giỏ xuống.

Nấm mộ này với nấm mộ thằng Thuyên nằm cùng một hàng, chỉ cách con đường mòn ở giữa. Thấy bà kia cũng bày ra một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, đứng khóc một hồi, rồi đốt vàng, thì bà Hoa trong bụng nghĩ thầm: “Chắc cũng là con chết”. Bà kia nhìn vơ vẩn xung quanh một lát, bỗng tay chân hơi run lên, rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, mắt trợn trừng ngơ ngác.

Thấy thế, bà Hoa sợ bà kia thương con quá phát điên chăng, cầm lòng không đậu, bèn đứng dậy, bước sang bên kia đường mòn, khẽ nói:

– Bà ơi! Thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta đi về thôi!

Bà kia hơi gật đầu, nhưng mắt vẫn trừng trừng rồi ấp úng nói khe khẽ:

– Kìa… bà trông kia kìa, cái gì thế này?

Bà Hoa nhìn theo ngòn tay chỉ, thấy nấm mộ trước mặt cỏ chưa xanh khắp, còn loang lổ những mẩu đất vàng khè, rất khó coi; lại nhìn kĩ phía trên bất giác giật mình. Rõ ràng có một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum.

Cả hai bà, mắt lòa từ lâu rồi, nhưng nhìn những cánh hoa trắng hoa hồng kia thì còn thấy rõ. Hoa không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề. Bà Hoa vội nhìn về phía mộ con mình và những nấm mộ khác xung quanh, chỉ thấy lác đác vài nụ hoa bé tí, trăng trắng, xanh xanh, tuy trời giá lạnh nhưng cũng chưa tàn. Bà ta bỗng thấy lòng trống trải, không thỏa, nhưng rồi cũng không muốn suy nghĩ thêm. Bà kia bước lại gần mộ con mình: “Hoa không có gốc, không phải từ dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây! Trẻ con không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định là không ai đến rồi!… thế này là thế nào?”. Nghĩ rồi lại nghĩ, bỗng nước mắt trào ra, bà ta khóc to:

– Du ơi! Oan con lắm, Du ơi! Chắc con không quên được, và con đau lòng lắm, phải không con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết, con ơi!

Bà ta nhìn xung quanh, chỉ thấy một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá. Rồi lại khóc:

– Mẹ biết rồi! Du ơi! Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Con nhắm mắt thế cũng yên phận con. Hồn con còn ở đâu đây thì hẵng nghe lời mẹ nói. Con ứng vào con quạ kia, đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!

Gió đã tắt. Những ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp như những sợi dây đồng. Một tiếng rên rỉ run run đưa lên giữ không trung, nhỏ dần, rồi tắt hẳn. Xung quanh vắng lặng như tờ. Hai bà già đứng giữa đám cỏ khô, ngước mắt nhìn con quạ. Con quạ vẫn đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt.

Một lúc lâu, người đi viếng càng đông. Bóng kẻ già người trẻ thấp thoáng giữa các nấm mộ.

Không hiểu sao, bà Hoa cảm thấy người nhẹ đi như cất được gánh nặng. Bà ta nghĩ đến chuyện về, khuyên giải bà già kia:

– Ta về đi thôi!

Bà kia thở dài một cái, uể oải thu dọn bát đĩa, lại chần chừ một lúc, rồi cũng chậm rãi bước đi, lẩm bẩm nói một mình:

– Thế này là thế nào nhỉ?

Hai bà đi, chưa được vài ba chục bước, bỗng nghe sau lưng một tiếng “Coa… ạ” rất to. Hai bà giật mình ngoảnh lại, thì thấy con quạ xòe đôi cánh, nhún mình, rồi như một mũi tên, vút bay thẳng về phía chân trời xa.

Tháng 4 năm 1919

I. Đôi nét về tác giả Lỗ Tấn

– Lỗ Tấn sinh năm 1881, mất năm 1936, tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân, là nhà văn cách mạng Trung Quốc

– Quê quán: phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc

– Năm 13 tuổi, ông chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc Ông chọn nghề y để chữa bệnh cho người nghèo, ốm mà không có thuốc, chết vì ngu dốt và mê tín… như cha mình.

– Ông đổi chí hướng nhân một lần ông xem phim thấy những người Trung Quốc hăm hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho Nga. Ông giật mình nhận ra rằng: “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Ông chuyển sang làm văn nghệ.

– Quan điểm sáng tác: dùng ngòi bút để phanh phui các căn bệnh tinh thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. Ông đã hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của chính họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường tiến về tương lai. Các tác phẩm của ông đều tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Chủ đề phê phán quốc dân tính trong sáng tác của ông trở nên thấm thía, sâu sắc.

– Các tác phẩm chính: AQ chính truyện (kiệt tác văn học TQ và thế giới), tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục tạp văn có giá trị phê phán, chiến đấu cao.

II. Đôi nét về tác phẩm Thuốc

1. Hoàn cảnh ra đời

– Truyện ngắn thuốc rút từ tập “Gào thét”.

– Truyện được sáng tác năm 1919, trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc chìm đắm trong mê muội, lạc hậu còn những người làm cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với người dân và Lỗ Tấn muốn người dân Trung Hoa nghiêm túc suy nghĩ để tìm ra phương thức chữa trị.

2. Tóm tắt

Một đêm thu gần về sáng, theo lời bác Cả Khang, lão Hoa trở dậy đi đến pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh cho thằng Thuyên – con trai lão, đang bị mắc bệnh lao. Bị chém hôm đó ở pháp trường là Hạ Du, một người làm cách mạng, do bị cụ Ba tố giác cháu với chính quyền để kiếm hai mươi lạng bạc mà bị bắt và hành hình. Nghe mọi người kể lại trong quán trà của gia đình lão Hoa, vào trong ngục, Hạ Du vẫn không sợ chết, còn dám cả gan rủ cả lão Nghĩa “làm giặc”. Mặc dù được chữa bằng bánh bao tẩm máu người nhưng cuối cùng thằng Thuyên vẫn không khỏi. Một buổi sớm mùa xuân, trong tiết thanh minh, tại nghĩa địa mẹ của Thuyên và mẹ của Hạ Du đều đến thăm mộ con. Hai người rất ngạc nhiên, băn khoăn tự hỏi “Thế này là thế nào?” khi nhìn thấy một vòng hoa đặt trên mộ người cách mạng. Bà mẹ của Thuyên đã bước qua con đường mòn cố hữu ngăn cách giữa nghĩa địa của người chết nghèo và nghĩa địa của người chết chém hoặc chết tù để sang an ủi mẹ Hạ Du.

3. Bố cục (4 phần)

– Phần 1 (từ đầu đến “Cổ… Đình Khẩu”): Đêm thu gần sáng, lão Hoa đi mua thuốc về chữa bệnh cho con

– Phần 2 (tiếp đó đến “đắp cho con”): Cảnh vợ chồng lão Hoa cho con uống thuốc

– Phần 3 (tiếp đó đến “Điên thật rồi”): cuộc bàn luận trong quán trà về phương thuốc chữa bệnh lao và về Hạ Du

– Phần 4 (còn lại): cảnh hai bà mẹ viếng mộ con

4. Giá trị nội dung

– Lỗ Tấn được tôn vinh là “linh hồn dân tộc” vì nhà văn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà bằng hộp sắt”, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.

– Truyện phơi bày tình trạng ngu muội, vô cảm của người dân Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi (1911) và thể hiện lòng khâm phục, xót thương đối với nhà cách mạng đã hi sinh

– Truyện ngắn Thuốc đã thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được bệnh tật của chính mình chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng thì dân tộc đó vẫn còn chìm đắm trong mê muội

5. Giá trị nghệ thuật

– Cốt truyện đơn giản, cách viết cô đọng, súc tích

– Hình ảnh mang tính biểu tượng, chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu ý nghĩa

III. Dàn ý phân tích Thuốc

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Lỗ Tấn (cuộc đời, các tác phẩm chính, quan điểm sáng tác…)

– Giới thiệu truyện ngắn Thuốc (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Hình tượng thuốc – chiếc bánh bao tẩm máu người

– Cách miêu tả chiếc bánh bao tầm máu người:

+ Một chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ tùng giọt, từng giọt

+ Lão Hoa cầm gói lá xanh và chao đèn loang lổ máu, dúi vào bếp, một mùi thơm quái lạ ngập cả quán

+ Một vật đen thui, một làn khói trắng bốc ra từ lớp vỏ cháy sém

→ Cách miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. Qua đó cho thấy sự mê tín, lạc hậu của người dân Trung Hoa lúc bấy giờ vì cho rắng bệnh lao có thể chữa khỏi bằng máu người

– Thái độ của mọi người trước phương thuốc chữa bệnh lao – bánh bao tẩm máu người:

+ Lão Hoa: để hết tinh thần vào gói bánh như nâng niu đứa con của gia đình mười mấy đời độc đinh

+ Thằng Thuyên: cầm cái bánh như cầm sinh mệnh mình

+ Bà Hoa: ăn đi con, ăn sẽ khỏi ngay

+ Bác cả Khang: cam đam thế nào cũng khỏi, thứ thuốc này đặc biệt lắm.

→ Một phương thuốc theo mọi người là quý hiếm, nhưng cuối cùng không chữa khỏi bệnh được cho Thuyên, Thuyên vẫn chết nên đó là một thứ thuốc độc, thứ thuốc giết chết người

⇒ Lỗ Tấn muốn người dân Trung Hoa nghiêm túc suy nghĩ tìm cho mình một phương thuốc để chữa căn bệnh mê tín dị đoan.

2. Hình tượng người cách mạng Hạ Du và thái độ của quần chúng

– Hình ảnh người cách mạng Hạ Du xuất hiện gián tiếp qua câu chuyện của những người trong quán trà nhà lão Hoa

– Hình tượng người cách mạng Hạ Du:

+ Một nhà cách mạng có nghĩa khí, có tư tưởng cách mạng tiến bộ, sẵn sáng chiến đấu vì nhân dân lao động

+ Dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn nhưng lại rất cô đơn, không ai hiểu và ủng hộ cho việc làm của Hạ Du

→ Hạ Du là hình ảnh tượng trưng cho những người làm cách mạng nhưng lại xa rời quần chúng nhân dân nên thất bại.

– Thái độ của quần chúng trước cái chết của Hạ Du

+ Họ xem Hạ Du là giặc, là đồ quỷ sứ, thằng khốn nạn, thằng điên khùng

+ Người chú đem cháu ra thú để lấy tiền

+ Người dân Trung Hoa lấy máu để làm thuốc

→ Sự thờ ơ, vô cảm, dửng dưng của nhân dân đối với những người làm cách mạng

– Nguyên nhân dẫn tới thái độ của nhân dân: những người làm cách mạng xa rời quần chúng nhân dân, không tuyên truyền để nhân dân hiểu nên họ trở nên đơn độc, như “mưa kịch trên sa mạc”, không một ai hiểu họ

⇒ Qua hình tượng Hạ Du, Lỗ Tấn đã gián tiếp bày tỏ thái độ của mình về cách mạng, về những người làm cách mạng. Đó là sự đồng cảm, xót thương, trân trọng nhưng đồng thời còn lên tiếng phê phán những người làm cách mạng khi họ xa rời quần chúng, không giác ngộ cho quần chúng.

3. Cảnh thăm mộ trong buổi sáng mùa xuân thanh minh

– Thời gian nghệ thuật chuyển từ mùa thu “trảm quyết” sang mùa xuân Thanh minh cho thấy mạch suy tư lạc quan và sự tin tưởng vào tương lai tươi sáng của tác giả.

– Ý nghĩa hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du:

+ Thể hiện tấm lòng ưu ái của Lỗ Tấn đối với cuộc đời, sự nghiệp và sự hi sinh của Hạ Du

+ Thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của cách mạng Trung Quốc: có người đã thấu hiểu cho những người làm cách mạng.

+ Khẳng định sẽ có những người tiếp tục làm cách mạng, tiếp bước Hạ Du.

– Ý nghĩa hình ảnh con đường mòn: Hình ảnh con đường mòn phân chia phần mộ thể hiện sự lạc hậu trong tập quán, suy nghĩ của người dân. Hai bà mẹ cùng bước trên con đường ấy thể hiện sự đồng cảm vì tình thương con.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của văn bản.

Tài liệu liên quan đến bài viết Thuốc

Tóm tắt truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn

Giáo án Ngữ văn lớp 12 bài Thuốc

Bài giảng Thuốc Ngữ văn 12