TaiLieuViet.vn xin gửi tới bạn đọc bài viết Soạn bài Ôn tập học kì 2 Kết nối tri thức để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu soạn văn 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết.
Mục Lục
ToggleHệ thống hóa kiến thức đã học
Câu hỏi 1. Sơ đồ hóa danh mục loại, thể loại văn bản đã học trong sách giao khoa Ngữ văn 11, tập hai. Nêu nhan đề những văn bản cụ thể thuộc các loại, thể loại ấy.
Bài làm
Câu hỏi 2. Lập bảng phân loại những đơn vị kiến thức cốt lõi được trình bày trong phần Tri thức ngữ văn của mỗi bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai theo từng nhóm: kiến thức chung về loại, thể loại; kiến thức về các yếu tố cấu thành văn bản thuộc từng loại, thể loại; kiến thức về lịch sử văn học; kiến thức tiếng Việt.
Bài làm
Tiêu chí |
Thể loại văn bản |
Các yếu tố cấu thành văn bản |
Kiến thức tiếng Việt |
Bài 6 |
Truyện thơ Nôm là loại hình tác phẩm tự sự độc đáo của văn học Trung đại Việt Nam, kết hợp phương thức tự sự và trữ tình, được viết chủ yếu bằng chữ Nôm và chủ yếu sử dụng thể loại song thất lục bát. |
– Yếu tố tự sự – Yếu tố trữ tình |
– Lặp cấu trúc là biện pháp tu từ sử dụng những cụm từ hoặc câu có cùng kiểu kiến trúc nhằm nhấn mạnh nội dung. – Đối là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ hoặc câu sóng đôi với nhau nhằm nhấn mạnh sự tương đồng hoặc tương phản. |
Bài 7 |
– Ký là tên một nhóm các thể, tiểu thể loại tác phẩm văn xuôi phi hư cấu có khả năng dung hợp các yếu tố. – Tùy bút là tiểu loại kí có tính tự do cao, bố cục linh hoạt, thường nghiêng hẳn về tính trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. – Tản văn là một tiểu loại kí thường sử dụng đồng thời cả yếu tố tự sự và trữ tình. – Truyện kí là một dạng truyện kể người thật, việc thật. |
– Yếu tố tự sự, trữ tình – Yếu tố hư cấu |
– Hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: đặc điểm và tác dụng |
Bài 8 |
Văn bản thông tin là văn bản nhằm cung cấp thông tin về một lĩnh vực nào đó cho người đọc và người nghe. |
– Tổ chức thông tin theo trật tự thời gian – Tổ chức thông tin theo trật tự nhân quả – Tổ chức thông tin theo tầm quan trọng của vấn đề – Tổ chức thông tin theo quan hệ so sánh hoặc tương phản. |
– Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ |
Bài 9 |
Cách giải nghĩa của từ |
Cách giải thích nghĩa của từ – Trình bày khái niệm mà từ đó biểu thị – Nêu từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa – Làm rõ nghĩa của từng yếu tố của từ |
Câu hỏi 3. Nêu nhận xét về nội dung Bài 6 (Nguyễn Du – “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”) trong sự so sánh với Bài 6 (Nguyễn Trãi – “Dành còn để trợ dân này”) ở sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập hai để nhận ra đặc điểm và yêu cầu riêng của loại bài học về tác gia văn học.
Bài làm
Nội dung của Bài 6 (Nguyễn Du – “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”) và Bài 6 (Nguyễn Trãi – “Dành còn để trợ dân này”) đều mang mang một nội dung chính là giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của hai tác giả Nguyễn Du và Nguyễn Trãi – hai trong số những nhà thơ nổi tiếng nhất Việt Nam, để lại cho đời khối lượng tác phẩm đồ sộ và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Mỗi văn bản đều có bố cục gồm tiểu sử, sự nghiệp sáng tác và kèm theo đó là sự giới thiệu cụ thể về những tác phẩm tiêu biểu về mỗi tác giả. Từ đó, ta có thể rút được bài học về thể loại tác gia văn học là:
– Bố cục đầy đủ gồm các phần chính như tiểu sử và sự nghiệp sáng tác
– Trong phần sự nghiệp sáng tác phải nói rõ những tác phẩm, tập thơ tiêu biểu của mỗi tác giả và giới thiệu qua về nó
– Có phần tổng kết nghệ thuật chung, đặc trưng của mỗi tác giả.
– Ngoài ra có thể nói rõ về một giá trị nghệ thuật thật đặc trưng của tác giả đó.
Câu hỏi 4. Phân tích ý nghĩa của các nội dung thực hành tiếng Việt trong việc hỗ trợ hoạt động đọc văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai.
Bài làm
Bài 6, phần thực hành tiếng Việt ở đây chủ yếu nói về biện pháp tu từ lặp cấu trúc, biện pháp tu từ đối – đây là những loại biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong thơ văn cổ Việt Nam. Việc sử dụng biện pháp tu từ lặp cấu trúc có tác dụng tạo nên ấn tượng về nhịp điệu của đoạn thơ, đoạn văn và làm nổi bật nội dung mà tác giả muốn nhấn mạnh. Biện pháp tu từ đối có tác dụng tạo nên vẻ đẹp cân xứng, hài hòa cho lời thơ, câu văn.
Ở bài 7, chúng ta được học về hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học. Đây là một biện pháp đặc biệt, nhằm thể hiện một dụng ý nghệ thuật nào đó. Nó có thể được sử dụng linh hoạt ở cả trong thơ và văn xuôi, gợi cho người đọc những liên tưởng mới lạ về sự vật, hiện tượng.
Trong bài 8, chúng ta được học về việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ trong việc trình bày văn bản. Đây là một biện pháp hay không chỉ tăng sự nhận thức về vấn đề mà nó còn giúp người đọc dễ dàng hiểu ra vấn đề và thể hiện rõ sự hiểu biết sâu rộng của người viết.
Ở bài 9, ta được học về cách giải thích nghĩa của từ. Bài học này chỉ ra 3 cách chính để giải thích nghĩa của từ gồm trình bày khái niệm mà từ đó biểu thị, nêu từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa, làm rõ nghĩa từng yếu tố. Sử dụng linh hoạt các cách giải thích nghĩa của từ không chỉ giúp bài viết của chúng ta trở lên sinh động mà nó còn giúp cho việc giải thích được rõ ràng hơn.
Câu hỏi 5. Nêu những kiểu bài viết và yêu cầu của từng kiểu bài đã được thực hành trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai.
Bài làm
Kiểu bài |
Yêu cầu |
Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học |
– Giới thiệu được tác phẩm cần thuyết minh – Giới thiệu khái quát về tác giả – Nêu được hoàn cảnh sáng tác, đặc điểm thể loại; tóm tắt được nội dung tác phẩm – Nêu thông tin cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật – Khẳng định vị trí, đóng góp của tác phẩm – Có lồng ghép các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận. |
Viết văn bản thuyết minh về một hiện tượng xã hội |
– Nêu rõ hiện tượng xã hội được thuyết minh và cung cấp một số thông tin cơ bản giúp người đọc hình dung bước đầu về hiện tượng. – Làm sáng tỏ nguyên nhân của hiện tượng, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hiện tượng đối với đời sống, nêu được giải pháp phát huy hiện tượng tích cực hoặc khắc phục hiện tượng tiêu cực – Rút ra ý nghĩa của việc thuyết minh – Sử dụng kết hợp trong văn bản thuyết minh một hay nhiều yếu tố |
Viết văn bản thuyết minh về một vấn đề của xã hội đương đại |
– Nêu rõ vấn đề xã hội được thuyết minh và cung cấp một số thông tin cơ bản, nổi bật về vấn đề đó – Làm sáng tỏ các biểu hiện hay phạm vi ảnh hưởng của vấn đề đối với đời sống xã hội hoặc cung cấp thông tin theo trình tự khác – Rút ra được ý nghĩa của việc nhận thức đúng vấn đề thuyết minh – Sử dụng kết hợp trong văn bản thuyết minh hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận. |
Viết văn nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật |
– Nêu được những thông tin khái quát về tác phẩm nghệ thuật sẽ bàn tới trong bài viết – Xác định rõ nội dung về hệ thống luận điểm sẽ triển khai – Phối hợp linh hoạt giữa việc trình bày lí lẽ và nêu bằng chứng cụ thể – Thể hiện sự rung động trước tác phẩm và sự đồng cảm đối với tác giả |
Câu hỏi 6. Liệt kê các nội dung hoạt động của phần Nói và nghe được thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai và cho biết ý nghĩa của từng nội dung hoạt động đó.
Bài làm
Nội dung hoạt động |
Ý nghĩa của hoạt động |
Giới thiệu một tác phẩm văn học |
– Bày tỏ sự hiểu biết và quan điểm của cá nhân về một tác phẩm văn học – Chia sẻ nội dung đến người nghe – Học được cách trao đổi thông tin sao cho phù hợp với hoàn cảnh |
Thảo luận, tranh luận về một vấn đề trong đời sống |
– Học cách đưa ra quan điểm cá nhân và giải thích cho quan điểm đó – Kỹ năng trình bày trước đám đông – Biết cách khai thác về một vấn đề trong đời sống |
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống |
– Học cách đưa ra quan điểm cá nhân và giải thích cho quan điểm đó – Kỹ năng trình bày trước đám đông – Biết cách khai thác về một vấn đề trong đời sống |
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật |
– Bày tỏ sự hiểu biết và quan điểm của cá nhân về một tác phẩm nghệ thuật – Chia sẻ nội dung đến người nghe – Học được cách trao đổi thông tin sao cho phù hợp với hoàn cảnh |
Luyện tập và vận dụng
Câu hỏi 1. Xác định ý tưởng chính mà nhà thơ Uýt-xla-oa Dim-bo-xca muốn triển khai qua đoạn trích. Ý tưởng đó gắn với từ khóa nào?
Câu hỏi 2. Hãy nêu một số cụm từ được tác giả nhắc tới trong đoạn trích mà bạn cho là có ý nghĩa tương đương với cụm từ “tôi không biết”.
Bài làm
Một số cụm từ có ý nghĩa tương đương với cụm từ “tôi không biết” được nhắc đến trong đoạn trích là “mấy từ nhỏ bé”, “nhỏ bé nhưng có cánh”, “khoảng không rộng lớn”, “cảm thấy băn khoăn”, “câu trả lời nhất thời và tuyệt nhiên chưa đầy đủ”…
Câu hỏi 3. Theo tác giả, việc tự xác nhận rằng “tôi không biết” có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của mỗi con người và của nhân loại nói chung? Bạn đánh giá như thế nào về các bằng chứng được tác giả nêu lên nhằm khẳng định quan điểm của mình?
Bài làm
Theo tác giả, việc tự xác nhận rằng “tôi không biết” có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống của chúng ta. Bởi nó là động lực, là khởi đầu của mọi phát minh, sự tìm tòi trong cuộc sống. Làm sao chúng ta có thể khám phá ra được cái mới từ một cái đã được chứng minh hay khi mình đã biết về định lí, định luật thì tiệt nhiên ta sẽ cho nó là đúng và sẽ chẳng bao giờ có ý định khám phá tiếp. Đó chính là lý do mà mỗi người chúng ta phải luôn tìm tòi cái mới. Bởi chỉ khi thấy được một cái mà mình vốn không biết, nó sẽ khơi gợi trong ta sự tò mò và đặt ra hàng vạn câu hỏi và buộc chúng ta phải tìm ra đáp án. Và khi đã trả lời cho câu hỏi ấy và nhìn lại thì thật sự ta đã làm được một điều to lớn đó chính là khám phá ra những cái mà người khác chưa biết.
Những bằng chứng được tác giả nêu ra nhằm khẳng định quan điểm của mình vừa mang tính thời đại và khá ngộ nghĩnh. Bởi ông không đưa ra ví dụ một cách cứng nhắc mà lấy những câu chuyện có phần gần gũi để chỉ ra được sự vĩ đại của họ. Như câu chuyện về quả táo rụng hay cô giáo dạy hóa… tất cả đều từ những thứ tầm thường xung quanh cuộc sống chúng ta, cái mà đôi khi ta chẳng hề để ý tới bởi nghĩ rằng nó là hiển nhiên đã được họ chú ý đến, họ đã nghiên cứu và để lại cho chúng ta những thành quả đáng ngưỡng mộ. Mà xuất phát từ động lực chính là tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, khám phá. Những bằng chứng đó cũng chính là một trong những lý do tạo nên sự thuyết phục cho tác phẩm.
Câu hỏi 4. Hãy nêu một ví dụ gắn với lĩnh vực sáng tạo thơ để minh họa cho vấn đề được tác giả đề cập trong đoạn 2.
Bài làm
Trường hợp này ta có thể kể đến chính là những sáng tác thơ của nhà thơ Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình của Việt Nam. Đọc các tác phẩm của ông, người đọc như được chìm đắm vào một thế giới tràn ngập tình yêu với sắc hồng của đôi lứa qua những câu văn hết sức táo bạo và vần điệu. Vậy tại sao tác giả lại có thể viết được những bài thơ như vậy? Có lẽ cũng chính bởi sự tò mò của bản thân ông. Ông cảm nhận được tình yêu thật sự rất đẹp, trong sáng và thiêng liêng.
Chính bởi những suy nghĩ đó, ông đã chấp bút, viết lên những câu chuyện tình yêu hay, thắm thiết, có phần táo bạo và đặc biệt, tâm tư, tình cảm của ông đều được người đọc thấu hiểu và cảm nhận được. Đó chính là thành công của ông khi đem đến cho Thơ mới một màu sắc mới của cuộc sống hiện đại, phóng khoáng, tự do. Nội tâm của ông cũng đã phản ánh về tâm hồn của người Việt Nam một thời, luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
Câu hỏi 5. Phân tích mạch lạc và liên kết của đoạn trích.
Bài làm
Tính mạch lạc và liên kết của đoạn trích được thể hiện rõ nét qua những từ nối như chính vì vậy, nếu như, thế nhưng,… đã góp phần tạo sự liên kết giữa các câu trong cùng một đoạn văn. Hay việc lật đi lật lại chủ đề bằng những câu như “Nếu như người đồng hương của tôi”, “Nhà thơ cũng vậy”… phần nào thể hiện sự giải thích cho quan điểm của tác giả. Ông không quá xa đà vào lấy ví dụ mà luôn tìm ra mắt xích giữa nó và chủ đề chính của văn bản, để từ đó làm rõ quan điểm của mình, khẳng định vai trò của sự tò mò trong việc tìm tòi, phát minh ra những cái mới.
Câu hỏi 6. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của bạn về hoạt động sáng tạo của nhà thơ nói riêng, của các nghệ sĩ nói chung từ những gì được gợi ý trong đoạn trích.
Bài làm
Hoạt động sáng tạo của con người luôn là vô tận, nhưng cái gì thúc đẩy sự sáng tạo của họ thì là một câu hỏi lớn. Theo như nhà thơ Uýt-xla-oa Dim-bo-xca thì nó xuất phát từ câu nói “tôi không biết”. Đó là khi chúng ta, hay chính các nhà thơ, nhà nghệ sĩ, họ tìm thấy những chủ đề này thật hay, thật sinh động, và ta sẽ viết, sẽ sáng tác về nó. Chính những cái suy nghĩ như vậy, họ bắt đầu sáng tác, những bài thơ tình đẫm nước mắt, những bản nhạc khiến người nghe phải rơi lệ, hay những bức vẽ khiến người khác nhìn vào và mỉm cười.. tất cả đều xuất phát từ sự ham học hỏi. Họ sáng tác ra một khối tác phẩm đồ sộ rồi chỉ để trả lời cho câu hỏi tình yêu có thực sự đẹp chăng như nhà thơ Xuân Diệu, hay cuộc sống thật buồn tẻ như nhà thơ Hàn Mặc Tử… tất cả những thứ được cho là tầm thường đó đều trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận trong họ. Những suy tư về cuộc sống qua cái nhìn nghệ sĩ đều được nhân cách hóa và trở thành cái gì đó hay và ý nghĩa, nó được gọi là sự vật qua con mắt của kẻ si tình. Cảm xúc của họ dành cho cuộc sống này luôn đong đầy và chiếm phần nhiều hơn người khác, họ yêu cuộc sống tự tại, tự do sáng tác và cùng nghiền ngẫm những tác phẩm của mình. Bởi vậy, những tác phẩm đó luôn mang theo những triết lý nhân sinh sâu sắc, những bài học cuộc sống ý nghĩa. Và đó chính là giá trị to lớn của nghệ thuật.
Viết
Đề 1: Hãy tạo lập một văn bản thuyết minh có sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ để giới thiệu một tác phẩm văn học được bạn đánh giá là đặc sắc.
Bài làm
Đề 2: Vấn đề xã hội nào hiện nay đang khiến bạn quan tâm nhiều nhất? Hãy viết một văn bản thuyết minh về vấn đề đó.
Bài làm
Đang cập nhật…
Đề 3: Ở mỗi người, nhu cầu tìm hiểu, khám phá thế giới kì diệu của nghệ thuật thường được khơi lên từ cuộc tiếp xúc bất ngờ với một tác phẩm cụ thể. Với bạn, tác phẩm nào đã đóng vai trò này? Hãy viết về tác phẩm đó.
Bài làm
Ai bảo dính vào duyên bút mực/ Suốt đời mang lấy số long đong. Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chịu nỗi đau vì sự bạc bẽo của văn chương. Tại sao như vậy? Phải chăng bởi nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônil Lêônôp yêu cầu: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.
Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Macxim Gorki, … nhà văn Nga Lềônil Lêônôp muốn khẳng định các nhà nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi một tác phẩm phải là một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy, cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ở sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật.
Cuộc sống phơi bày ra trước mắt mỗi người biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tác phải đem đến cho họ một cách nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan.
Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biết và hứng thú của nhà văn thì có bạn. Do đó, ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mầm tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy cái vốn ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và với trái tim bạn đọc. Lep Tônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ, Nguyễn Tuân cũng khẳng định: “Thơ là mở ra được cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín”.
Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mĩ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó, mỗi tác phẩm trước hết phải là một “khám phá về nội dung”. Muốn vậy, nhà văn không thể chỉ là “người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”, mà phải “biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhìn sâu vào cuộc sống, hiểu tâm hồn của con người để khám phá ra những vân đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung lả nội dung của hình thức và hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tự tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo những biến đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời, nhưng lại nói bằng giọng điệu riêng, âm sắc riêng của tâm hồn mình; do vậy, tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.
Cái độc đáo, sự sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ. Phong cách không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được, cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ thuần tuý đi tìm cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ cái mới của nội dung. Khi cả tác phàm toái lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ phải đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác lại vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.
Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điều đó sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển, sự phong phú của nền văn học. Mỗi giai đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.
Trong văn mạch dân tọc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại đề lại một khí dấu, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lệ cẳm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kì này là một tiếng kêu thương thống thiết và một tiếng nói mạnh mẽ khẳng định quyền sống của mỗi cá nhân, sang giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu nước mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu thế kỉ XX, các thi sĩ phong trào Thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái “tôi” cá nhân của mình. Mỗi thời đại có một nét riêng và cái riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị nhất, độc đáo nhất đối với người đọc là sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh ta có thể nói lên được điều gì mới lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.
Cùng viết về người kĩ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc Tì bà hành, thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nỗi đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát người kĩ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy ta vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thìa mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:
Bên Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Không hiểu sao hai chữ canh khuya với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn như chứa sẵn trong đó cảm giác bất trắc, muộn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời, khiến không gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thâm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối tình tri âm tri kỉ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang lấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp, Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ đất Long Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diêt của nhà thơ.
Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện nhửng nét tâm tình của con người trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến thơ mới. cái “tôi” cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt, ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kĩ nữ không đau xót một cách ngậm ngùi, nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh:
Em sợ lắm. Giá bang tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấm vào tâm can. Trăng không “trong vắt” một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn.
Nếu như Bạch Cư Dị, Ncuyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng. Từ trong hiện lại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay.
Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch Cư Dị. Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do; thoát khỏi sự gò bó về niêm luật.
Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đôi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy, nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức bức tranh thiên nhién trong thơ Nguyễn Trãi:
Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu.
Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hoà cùng màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con thuyền gối bãi thật nhàn nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có một chúi xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bốn nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người – chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc băng một cái tôi cá thể mà nói về mình như nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không, thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian, ức Trai giao hoà với cảnh vật, nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả như ngưng đọng lại:
Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Từ xanh ngắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động, nhưng thật khẽ khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cần trúc vừa gợi sự lay động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hiu.
Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở nên khác hẳn:
Những luồng run rẩy rung rinh lá …
Đã nghe rét mướt luồn trong gió.
Làn gió của Xuân Diệu không hắt hiu thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn vào trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây như run lên vì lạnh.
Từ vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng khác hiệt biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiền hoà như người bạn muôn đời của thi nhân:
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Vầng trăng cứ thế giãi lên thềm, cứ thế lọt qua song cửa, nơi giao lưu của tinh thần. Trăng với người đồng cảm, đồng điệu, nhưng tình cảm ấy cũng có cái gì đó lặng lẽ. Vầng trăng vẫn còn mang vẻ tự nhiên của tạo vật không lời.
Đến Xuân Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm sự, trăng cũng thấm thía nỗi cô đơn: thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên ở Xuân Diệu mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt. Đọc Vội vàng, ta cũng thấy đây là “một phát minh về hình thức và mội khám phá về nội dung”. Không hiểu sao đến với bài thơ này nói riêng, thơ Xuân Diệu nói chung, tôi cứ nghĩ đến tiếng hát của chàng Daniyar trong truyện Giamilya của Aimatôp. Chàng trai ấy đã cất tiếng hát từ tình yêu mê đắm của mình, không phải chỉ mê đắm mội con người cụ thể mà là tình yêu đối vđi cả cuộc sống, cả đất trời này. Thực sự “Xuân Diệu ta nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến niềm say đắm sự sống. Trái lim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho mình bộ “y phục tối tân”, trút cái “áo cổ điển” đầy gò bó, tìm đến thể thơ tự do với những câu dài ngắn khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng có sự hăm hở, đắm say. Thi sĩ cuống quýt, hôi hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ cổ.
Mỗi nghệ sĩ, khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. Cùng viết về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.. Chính những khám phá ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Đê tạo ra cái mới, người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phái huy cái riêng của mình. Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không ihể xem sáng tác như một thế nghề chơi mà cần có sự khổ luyện, có sự đào sâu, tìm tòi.
Một nhà văn nước ngoài có nói, đại ý: Trong văn chương có những niềm hạnh phúc trong nỗi đau khổ tột cùng mà chỉ người nghệ sĩ mới hiểu được. Sáng tạo ra cái mới chính là kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến thắng quy luật băng hoại của thời gian.
Nói và nghe
Nội dung 1: Thuyết trình về một tác phẩm văn học được khuyến nghị đọc ở phần Củng cố, mở rộng của mỗi bài học.
Bài làm
Cuộc tình dang dở của Thúy Kiều – Từ Hải đã phải đứt đoạn khi trước nay chí lớn luôn là khao khát của biết bao chàng trai lúc bấy giờ. Hội ngộ – chia li như tạo thành vòng tròn của quy luật cuộc sống được Nguyễn Du đưa vào đoạn trích “Chí khí anh hùng” một cách khéo léo và đầy tinh tế.
Đoạn thơ là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để quyết tâm lên đường đi cuộc khởi nghĩa. Mở đầu đoạn thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Đoạn thơ trên tạo nên một hình ảnh rất đẹp về sự đam mê, tình yêu và sự khát khao phiêu lưu. Cảm giác nồng nàn của hương lửa đã kéo trượng phu vào một cuộc phiêu lưu đầy thú vị. Những chi tiết như “trông vời trời bể mênh mang” và “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” đã cực kỳ tinh tế và sống động, giúp đọc giả cảm nhận được sự tràn đầy năng lượng và sự hào hùng của hành trình đó. Tổng thể, đoạn thơ này mang đến cho người đọc một cảm giác rất mạnh mẽ về sự mạo hiểm và khao khát chinh phục, đồng thời cũng khơi gợi sự tò mò và cảm xúc:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.
Đoạn thơ trên tạo ra một hình ảnh sâu sắc về cuộc sống trên giang hồ, với những khó khăn và sự đổi thay liên tục. “Giang hồ quen thói vẫy vùng” thể hiện sự tàn bạo và khắc nghiệt của một cuộc sống đầy gian truân và đấu tranh. “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào” gợi lên hình ảnh những người đàn ông giang hồ đi về một hướng duy nhất, chấp nhận những khó khăn của cuộc đời để tiếp tục hành trình. Đoạn thơ này không chỉ tả lên cuộc sống khắc nghiệt mà còn thể hiện sự gan dạ và kiên cường của con người Từ Hải trước những thách thức của cuộc đời.
Trước quyết tâm muốn ra đi vì nghĩa lớn của người làm trai, Thúy Kiều cũng thể hiện thái độ mong muốn được tuân theo phận làm giáo của Nho giáo:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
” Phận gái chữ tòng” thể hiện rằng khi sống người phụ nữ phải theo chồng, vì vậy ” chàng đi thiếp cung một lòng xin đi” thể hiện quyết tâm muốn theo Từ Hải cùng nhau làm nên chí lớn. Sau đó Từ Hài động viên nàng ở nhà yên tâm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Trước lời bộc bạch của Thúy Kiều, Từ Hải cho rằng bản thân mình đi vi vu giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, vô định, Thúy Kiều mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, chính chàng cũng chưa biết mình sẽ đi đâu về đâu. Vì vậy, Từ Hải khuyên bảo Thúy Kiều hãy ở nhà khi nào yên ổn chàng sẽ ” rước nàng nghi gia”. Thế rồi:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hai câu thơ tuy ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc, gợi lên hình ảnh của một người đang đưa ra quyết định để rời đi và bắt đầu một cuộc hành trình mới. “Quyết lời dứt áo ra đi” thể hiện sự quyết tâm của người đó trong việc chấm dứt một chặng đường và bắt đầu một chặng đường mới. Câu “Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi” càng tôn lên sự đầy nghĩa trọng của quyết định đó, cho thấy rằng người đó đã chuẩn bị và sẵn sàng cho những thử thách mới. Đồng thời còn thể hiện sự tạm biệt, đôi khi là khó khăn và đau buồn, nhưng cũng là một cơ hội để bắt đầu lại và đạt được những điều tốt đẹp hơn.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dùng điển cố, điển tích… và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…
Tóm lại, thông qua đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải được xây dựng dưới ngòi bút của Nguyễn Du thật chí khí, anh dũng mang khát khao và hoài bão nam nhi muốn lập nên chí lớn.
Nội dung 2: Trình bày bài thuyết minh về một vấn đề xã hội được tự chọn (có thể dựa vào bài viết của mình về vấn đề này, nếu đã có).
Bài làm
Giáo dục luôn là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu, từ xưa đến nay. Từ các triều đại phong kiến cho đến thời đại ngày nay, việc giáo dục con người luôn được coi là tiêu chí hàng đầu của sự phát triển đất nước và nó luôn gắn liền với việc học. Bởi vậy, lời khuyên của Lê-nin “Học, học nữa, học mãi” vẫn còn nguyên giá trị ngay cả trong cuộc sống ngày nay. Hôm nay, hãy cùng nhóm chúng mình tìm hiểu về câu nói này của Lê-nin cũng như tầm quan trọng của việc học trong xã hội hiện nay.
Học ở đây có thể hiểu là sự tiếp thu kiến thức được truyền đạt lại từ các phương tiện khác nhau và thường nó được dùng để chỉ những kiến thức tốt đẹp, mang ý nghĩa nhân văn và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Chúng ta có thể học từ những bài học của thầy cô giảng trên lớp, từ bạn bè, những người đi trước rồi đến sách vở, báo chí, video… Kiến thức luôn hiện diện ở khắp mọi nơi và đòi hỏi chúng ta phải biết học tập một cách đúng cách và hiệu quả. “Học nữa, học mãi” ở đây có thể hiểu là việc học diễn ra lâu dài, kiên trì, bền bỉ hay nói cách khác là diễn ra suốt đời. Không chỉ những em nhỏ cần phải học mà ngay cả những người lớn tuổi, họ cũng hoàn toàn có thể học để mở rộng kiến thức của mình. Kiến thức luôn là một cái gì đó rộng mở và chúng ta phải chiếm lĩnh nó. Ẩn sâu trong đó là lời khuyên chân thành rằng chúng ta hãy luôn học hỏi, trau dồi bản thân mình để trở lên tốt đẹp hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Vậy việc học như vậy sẽ đem lại cho chúng ta những lợi ích gì? Trước hết là đối với bản thân chúng ta. Như chúng ta đều biết, trình độ văn hóa luôn là thước đo để đánh giá phẩm chất của con người trong xã hội, hay như từ chúng ta thường thất là “có học” và “không có học”. Có học ở đây là để chỉ những người học cao cấp đại học, có thể là thạc sĩ, tiến sĩ và đây được cho là phần tinh túy của xã hội. “Không có học” ở đây là để chỉ những người học thấp, hết chương hình Trung học cơ sở hoặc phổ thông, sau đó họ đi làm và không tiếp tục học nữa. Và hiển nhiên, những người “có học” sẽ được xã hội trọng dụng và coi trọng hơn. Trình độ văn hóa của bạn không chỉ nói lên con người của bạn mà nó còn giúp bạn đạt được những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt, nhận được sự tôn trọng của mọi người xung quanh và luôn được ưu tiên trong một số trường hợp như điều kiện làm việc, đối xử… Đối với xã hội, sự phát triển của nó tùy thuộc vào nó. Một xã hội bao gồm những người có trình độ học tập, làm việc, cư xử… sẽ không chỉ thúc đẩy sự phát triển của xã hội ngày càng cao mà nó còn giúp tạo một môi trường lành mạnh để con người có thể bộc lộ hết tài năng của mình, cống hiến hết mình vì sự phát triển của xã hội. Đó chính là lợi ích to lớn nhất của việc học.
Dù vậy, trong cuộc sống ta vẫn luôn bắt gặp những trường hợp không chịu học hỏi, nâng cao nhận thức và hoàn thiện bản thân mà luôn áp đặt suy nghĩ của mình vào người khác, luôn cho mình là đúng. Những người như vậy thật đáng phê phán. Hay một bộ phận khác, họ không muốn học, hay làm mà chỉ muốn ăn chơi và dần sa đọa vào tệ nạn xã hội và dẫn đến những hậu quả thương tâm.
Bởi vậy, mỗi người chúng ta phải luôn học hỏi, trau dồi để hoàn thiện bản thân mình, điều đó không chỉ nâng cao hiểu biết của bản thân chúng ta mà nó còn giúp chúng ta luôn giữ được bản tính và lý tưởng của mình, tỉnh táo trước sự cám dỗ và những thói tiêu cực. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh chúng ta, cần phải luôn luôn học tập, rèn luyện bản thân mình ngày càng trở lên tốt đẹp hơn, phải có trách nhiệm với gia đình, xã hội và đất nước. Phải luôn phấn đấu phát triển bản thân trở thành một người có ích cho xã hội, để xứng đáng với lời răn dạy của Lê-nin.
Như vậy, việc học luôn là cần thiết và là phương tiện để ta thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với gia đình, xã hội và đất nước. Vì vậy, chúng ta phải luôn đề cao việc học tập, rèn luyện của bản thân trong quá trình rèn luyện và tu dưỡng đạo đức của chính mình.
Nội dung 3: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ về vấn đề lựa chọn và hành động trong cuộc đời.
Bài làm
Tình cảm giữa người với người, người với vật, người với đất là tư tưởng thiêng liêng, quan trọng trong bất kỳ thời đại nào. Nhà thơ Thanh Sao cũng từ cảm xúc ấy mà viết nên bài thơ “Gặp lá gạo nếp” khiến ông suy nghĩ nhiều về tình cảm con người.
Bài thơ “Gặp lá gạo nếp” nói về người mẹ già và tình cảm của người con đối với đất nước. Thanh Thảo đã gửi gắm nhiều tâm tư, hoài niệm, cảm xúc qua nhân vật người con trai. Trong những lần hành quân qua chiến trường Trường Sơn, tình cờ con tôi ngửi thấy mùi lá nếp vừa lạ vừa quen. Cái mùi này làm tôi nhớ đến hình ảnh người mẹ cần cù, chăm chỉ đứng bếp nấu cơm, nó làm tôi bỗng nghẹn ngào. Hương thơm của phương trời này cũng đã gợi nhớ hương vị quê nhà, nên nỗi nhớ được chia sẻ giữa mẹ già và đất nước. Nỗi nhớ nhung thủy chung ấy đã thắp lên ngọn lửa đỏ thắp sáng tâm hồn nhạy cảm và quyết tâm làm tròn trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc.
Qua mối liên hệ thiêng liêng giữa đứa con xa nhà và mẹ. Chúng ta cũng có thể tự suy nghĩ, ngẫm ra. Trong cuộc sống, chúng ta bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ. Chúng ta gắn bó với cha mẹ và anh chị em của chúng ta từ khi sinh ra. Tình cảm này chắc chắn luôn thiêng liêng và quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người. Dù mai này ta có lớn lên và đi xa, khi cuộc sống còn nhiều gánh nặng, khó khăn thì nơi bình yên và hạnh phúc nhất chính là gia đình. Người ta nói giữa cha mẹ và con cái luôn có một sợi dây liên kết vô hình. Nó thực sự rất đúng. Hình ảnh cha mẹ luôn gắn liền với công sinh thành, dưỡng dục khôn lớn, vì vậy bổn phận của chúng ta là phải yêu thương, kính trọng và tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ hết mức có thể. Tình yêu này rất đặc biệt đến nỗi không gì có thể thay thế được tình yêu sâu đậm của cha mẹ dành cho con cái, cũng như lòng biết ơn và sự phụ thuộc của con cái vào cha mẹ.
Xa hơn nữa là tình yêu quê hương đất nước. Sinh ra trong một cộng đồng nhỏ là một gia đình, và cho đến khi lớn lên, trưởng thành, con người cần chung sống và cống hiến hết mình cho cộng đồng lớn hơn. Đó là xã hội, quê hương, đất nước. Trong xã hội hòa bình ngày nay, chúng ta không còn cần phải cống hiến sức mình cho kháng chiến cách mạng như chúng ta đã từng làm. Nhưng nếu đất nước cần chúng ta, thì với tư cách là những người trẻ tuổi, chúng ta phải sẵn sàng tham gia tích cực vào việc bảo vệ đất nước của mình. Đừng thờ ơ, lảng tránh mà hãy mạnh dạn, tự tin làm chủ đất đai, sông núi, phát triển đất nước ngày càng phát triển theo lời Bác dạy để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Tóm lại, tình cảm của con người trong cuộc sống rất đa dạng vì con người là những cá thể nhỏ bé trong một cộng đồng lớn. Trao yêu thương luôn. Chúng ta luôn ở lại với những điều đơn giản nhất xung quanh chúng ta.
———————————————–
TaiLieuViet.vn vừa gửi tới bạn đọc bài viết Soạn bài Ôn tập học kì 2 Kết nối tri thức. Mong rằng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)