Soạn văn Củng cố, mở rộng trang 28 Kết nối tri thức

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 28 Kết nối tri thức được TaiLieuViet.vn sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để soạn bài 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Củng cố, mở rộng

Câu hỏi 1. Hãy giới thiệu vị trí, nội dung và đặc điểm nghệ thuật của một đoạn trích trong Truyện Kiều do bạn tự chọn.

Bài làm

Kiều ở lầu Ngưng Bích

Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn

Nội dung: Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

Nghệ thuật: Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, phép điệp cấu trúc.

Câu hỏi 2. Trong Kim Vân Kiều truyện, sự kiện Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả ở Hồi thứ tư. Hãy tìm đọc hồi truyện này và chỉ ra một số điểm khác biệt giữa Nguyễn Du với Thanh Tâm Tài Nhân trong cách miêu tả sự kiện trao duyên.

Bài làm

Nguyễn Du chỉ dùng hơn 20 câu thơ để miêu tả diễn biến tâm trạng trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân hết sức đặc sắc. Thanh Tâm Tài Nhân sử dụng riêng 1 hồi để miêu tả lại cảnh ấy.

Câu hỏi 3. Các văn bản đọc ở Bài 6 (Tác gia Nguyễn Du, Trao duyên – trích Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí) đã giúp bạn hiểu gì về những giá trị đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Du?

Bài làm

Những giá trị nghệ thuật trong di sản văn học của Nguyễn Du, đặc biệt là tác phẩm Đoạn trường tân thanh (mà chúng ta quen gọi là Truyện Kiều) của ông là kết quả tài năng xuất chúng của cá nhân Đại thi hào, nhưng cũng là kết tinh của tiến trình mấy nghìn năm phát triển của văn hóa, văn học dân tộc kết hợp với những thành tựu của văn hóa khu vực Đông Á và Đông – Nam Á…

Những giá trị văn hóa kiệt xuất ấy thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc và thuộc về nhân loại, sẽ trường tồn cùng thời gian. Có được điều đó bởi sự nghiệp văn học mà Nguyễn Du để lại cho nhân loại với những tập thơ chữ Hán đầy chất suy tư, trắc ẩn, chứa đựng những giá trị hiện thực lớn lao của cả một thời đại như Bắc hành tạp lục, Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, bài Văn tế thập loại chúng sinh khóc thương cho thân phận chúng sinh, cho những con người bất hạnh trong xã hội như các em bé mồ côi không nơi nương tựa, các cô gái làm nghề kỹ nữ và bao kiếp người đau khổ khác…

Đặc biệt, Truyện Kiều bất hủ thể hiện một cách sinh động chủ nghĩa nhân đạo cao cả, lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vẻ đẹp thể chất và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc.

Những tác phẩm ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của thơ ca, của cốt cách và tâm hồn Việt Nam, khẳng định vị trí số một của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc và từng bước chiếm lĩnh văn đàn thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.

Nguyễn Du từng đi sứ sang Trung Hoa, quê hương của Nho giáo và trên con đường thiên lý đầy hiểm nguy, trắc trở nơi xứ người, ông đã thấu triệt chân lý: ở nơi đâu thì những người dân lành, đặc biệt là người phụ nữ, người tài hoa đều có số phận đau khổ giống nhau, họ đều phải chịu biết bao sự đọa đày, bóc lột từ những kẻ có quyền lực trong một thể chế bộc lộ bản chất phi nhân tính.

Ông yêu thương, xót xa cho họ và viết lên những tác phẩm bất hủ có sức mạnh tố cáo mãnh liệt và cũng chứa đựng những tình cảm yêu thương mãnh liệt.

Trong ông, những giáo điều mang tính sách vở đã dần tan vỡ trước thực tế khắc nghiệt; đã lớn dậy một tình yêu thương nhân loại sâu thẳm. Tình yêu thương ấy không chỉ dành cho những sinh linh đất Việt mà cho cả những con người bất hạnh khốn cùng nơi Trung Hoa bạt ngàn gió bão, cho cả nhân loại chúng sinh.

Nguyễn Du là một nhà tư tưởng lớn và ở ông có nhiều nhận thức mới mẻ đi trước thời đại, đặc biệt tập trung trong những giá trị nhân văn nổi bật của các tác phẩm, trong vấn đề thay đổi nhận thức về thực trạng tư tưởng và thực trạng xã hội…

Đoạn trường tân thanh được viết bằng truyện thơ Nôm – một thể loại văn học thuần túy dân tộc, có nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được bác học hóa và là sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du, của văn học thế kỷ XVIII – XIX. Thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọn là lục bát, cũng là một thể thơ thuần túy dân tộc, đã tồn tại trong văn học dân gian từ lâu đời, là hình thức thể hiện của những bài ca dao, dân ca làm say lòng người trong các lễ hội dân gian trải dài khắp mọi miền đất nước. Nhưng cũng chính thể thơ lục bát qua bàn tay thiên tài của Đại thi hào đã được gọt rũa thành những viên châu ngọc ngời sáng vẻ đẹp dân tộc.

Lục bát, ca dao, dân ca sau Truyện Kiều đã trở thành một thứ lục bát, ca dao, dân ca đẹp hơn, dân tộc hơn, vừa cao sang, vừa gần gũi. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du trở thành người “phục hưng” những giá trị văn hóa, văn học mang tính bản địa của dân tộc, và ông phát triển đến đỉnh cao những thành tựu tinh thần này, khiến chúng trở thành bản sắc của văn học Việt Nam trong khu vực và thế giới.

Số phận con người, cũng như sự phê phán những mặt trái, hạn chế của chế độ phong kiến, đã trở thành vấn đề cấp bách, được đặt ra một cách đầy gay gắt trong sáng tác của nhà thơ. Con người với thế giới tâm hồn phong phú, với đời sống nội tâm sâu sắc, phức tạp và thân phận bi kịch của họ được Nguyễn Du khám phá, phát hiện ở những tầng bậc sâu xa nhất. Ông trở thành một trong số rất ít nghệ sĩ bậc thầy trên thế giới về nghệ thuật miêu tả tâm lý.

Đại thi hào cho chúng ta thấy nỗi đau tinh thần, sự giằng xé trong nội tâm con người còn đớn đau, vật vã hơn nhiều so với nỗi đau thể xác. Đây là một trong những thành tựu nghệ thuật hết sức to lớn của văn học dân tộc mà Nguyễn Du là tiêu biểu.

Lòng thương xót, sự cảm thông, việc đề cao nhân cách, tài năng của người phụ nữ được Nguyễn Du kế thừa từ tinh thần nhân văn của văn hóa dân tộc mà truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tín ngưỡng thờ mẫu đề cao vai trò người mẹ là những giá trị tiêu biểu.

Những giá trị nhân văn trong các tác phẩm của Nguyễn Du còn được Đại thi hào kế thừa từ tinh thần nhân đạo và dân chủ của văn hóa, văn học dân gian, từ các giá trị nhân bản của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và từ tín ngưỡng, phong tục, tập quán dân tộc.

Tuy nhiên, nhà thơ không chỉ kế thừa mà đã nâng các giá trị nhân văn đó lên một bước mới, đem lại cho nó giá trị nhân loại. Nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và những phẩm chất truyền thống cao quý của người phụ nữ Việt Nam như tấm lòng thủy chung son sắt, sự nết na, thùy mỵ, bản lĩnh và nghị lực, thái độ coi trọng nhân cách, coi trọng sự trắng trong của tâm hồn và thể xác…

Nguyễn Du ca ngợi tài năng đặc biệt của Kiều – những thứ tài không những không được người đời chấp nhận mà còn bị khinh rẻ, dập vùi. Sự tài hoa trở thành tiêu chí của cái đẹp, cái thẩm mỹ. Ông không xây dựng nhân vật của mình thành một thánh nữ. Thúy Kiều của Nguyễn Du hết sức đời thường, gần gũi, như bước vào trang sách từ chính cuộc đời thực.

Câu hỏi 4. Truyện Kiều đã nhiều lần miêu tả cảnh Thúy Kiều đánh đàn. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều trong một lần được Nguyễn Du miêu tả.

Bài làm

Tiếng đàn là một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng nạn nhân của Kiều.Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không được nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh” kia không còn lý do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều sống lại dữ dội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức năng giải tỏa tâm trạng, nó có một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi nó cất lên tiếng “ca vui đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được tâm trạng đó là “muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi nó xuất hiện trước Kim Trọng, tính chất nạn nhân của nó bộc lộ theo một kiểu khác, không phải để nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới có lúc bị lừa:

Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?

Anh ta bị Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc mê lý tưởng hóa vào để lừa đấy thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn đoàn viên như thế là hỏng bét! Và có lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng là một cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta là tri âm của Kiều, chính Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây giờ đoàn viên thì anh ta không còn là tri âm nữa. Bởi vì đôi tai của con người kiểu Kim Trọng vốn là như thế, nó quá tinh đến nỗi nghe được những âm vang từ một cõi siêu hình mà tai trần không nghe thấy được, nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm vang từ cuộc đời “quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy, khi con người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó mất đi một tri âm tự nguyện là Kim Trọng và thêm vào những kẻ tri âm bất đắc dĩ là Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.

Câu hỏi 5. Viết bài văn ngắn giới thiệu một bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Sử dụng bài viết để lập dàn ý cho bài nói (Giới thiệu một bài thơ chữ Hán theo lựa chọn cá nhân).

Bài làm

Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài thơ, là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn.
Mười năm gió bụi (1786-1795) là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi. Thời gian Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Nguyễn Du làm nhiều bài thơ viết về mùa Xuân buồn bã, u ám có bài ám chỉ tuổi ông cỡ ba mươi, như thế có lẽ làm vào cuối thời kỳ Mười Năm Gió Bụi (1794-1795). Một số bài mang lên ở đây như: Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (1/249), Xuân Nhật Ngẫu Hứng (2/249), Tự Thán I và II (3-4/249), Sơn Cư Mạn Hứng (7/249), U-Cư (9/249), Mạn Hứng (10/249), Xuân Dạ (12/249). Dưới chân núi Hồng (1796-1802), về ẩn ở quê nhà. Thời gian Dưới Chân Núi Hồng có bài Tạp Thi I (49/249). Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804). Thời gian ra làm quan ở Bắc Hà có ba bài Mộ Xuân Mạn Hứng (66/249), Thanh Minh Ngẫu Hứng (67/249), Xuân Tiếu Lữ Thứ (75/249). Ba bài này làm trong thời gian ông cỡ 40 tuổi (1804).

Phần Thanh Hiên Thi Tập này diễn dịch nghĩa 78 bài thơ của Nguyễn Du. Khác với Bắc Hành Tạp Lục với những bài thơ viết về cảm nghĩ của Nguyễn Du với những cảnh trí, địa phận ông đi ngang qua, về nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên nói về cá nhân Nguyễn Du và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời.

Như đã nói đến trong phần tiểu sử của Nguyễn Du, những bài thơ trong tập thơ Hán Nguyễn Du được sắp thứ tự khác nhau trong các ấn bản biên khảo khác nhau, riêng tập thơ dịch của Sóng Việt-Đàm Giang dựa theo cách sắp xếp trong ấn bản năm 1978 của cụ Lê Thước và đồng nhóm.
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài được chia làm ba phần và ba thời kỳ: đó là Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Dưới Chân Núi Hồng ( 1796-1802), và thời kỳ thứ ba là thời gian ra làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804).

————————————

Bài tiếp theo: Soạn bài Chí khí anh hùng Kết nối tri thức

Trên đây TaiLieuViet.vn vừa gửi tới bạn đọc bài viết Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 28 Kết nối tri thức. Mong rằng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Toán 11 Kết nối tri thức, Văn mẫu 11 Kết nối tri thức.