TaiLieuViet.vn xin giới thiệu tới các bạn học sinh lớp 12 tài liệu: Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan, tài liệu tổng hợp cách lập dàn ý và phân tích nội dung tác phẩm sẽ giúp các em học sinh học tập hiệu quả hơn môn Ngữ văn. Mời các bạn và thầy cô tham khảo.
Mục Lục
ToggleA. Dàn ý phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan
I. Tìm hiểu chung
1. Tiểu dẫn
– Cô-phi Anna: Sinh ngày 8/4/1938 tại Ga-na (một nước Cộng hòa châu Phi).
– Quá trình hoạt động:
- Năm 1962: Bắt đầu làm việc ở tổ chức Liên hợp quốc
- Năm 1966: Phó tổng thư kí Liên hợp quốc phụ trách gìn giữ hoà bình.
- Từ 1/1/1997: Tổng thư kí Liên hợp quốc. Ông đảm nhiệm chức vụ này hai nhiệm kì liền cho tới tháng 1/2007 (10 năm).
2. Văn bản
a. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
- Cô Phi Anna viết văn bản này gửi nhân dân toàn thế giới nhân ngày thế giới phòng chống HIV/AIDS 1/12/2003.
- Mục đích: Kêu gọi cá nhân và mọi người chung tay góp sức ngăn chặn hiểm hoạ, nhận thấy sự nguy hiểm của đại dịch này.
b. Thể loại
- Văn bản nhật dụng.
- Thông điệp: Là những lời thông cáo mang ý nghĩa quan trọng đối với nhiều người, nhiều quốc gia, dân tộc.
c. Bố cục
Bài văn chia làm ba đoạn.
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “….chống lại dịch bệnh này”): Nhắc lại nhiệm vụ chống dịch bệnh AIDS đã đề ra cách đây hai năm.
- Đoạn 2 (Tiếp theo đến “… hành động thực tế của mình”): Điểm lại những việc đã làm và chưa làm được sau hai năm ra lời kêu gọi và Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS.
- Đoạn 3 (Còn lại): Lời kêu gọi không nên kì thị với những người bị bệnh và phải hành động cấp bách trong cuộc chiến chống lại HIV/AIDS.
d. Chủ đề
Thông điệp nêu rõ hiểm hoạ của toàn nhân loại => kêu gọi các quốc gia và mọi ngưòi coi đó là nhiệm vụ của chính mình, không nên im lặng, kì thị, phân biệt đối với những ngưòi bị HIV/AIDS.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Đọc
2. Tìm hiểu văn bản
a. Đặc điểm tình hình của văn kiện
Căn cứ vào tình hình thực tế:
- 1/4 số thanh niên bị nhiễm HIV ở các nước.
- 1/4 số trẻ sơ sịnh bị nhiễm. Cứ một phút một ngày trôi qua lại có 10 nguời bị nhiễm.
- Khi thông điệp này viết ra (2003) thì sự cố gắng của mọi người, mọi quốc gia chưa đủ. Vì thế thông điệp dự đoán “chúng ta không thể đạt đuợc mục tiêu nào vào 2005”.
b. Nhiệm vụ của mỗi quốc gia
- Không vì mục tiêu trong sự cạnh tranh mà quên đi thảm hoạ cướp đi cái đáng quý nhất là sinh mệnh và tuổi thọ của con nguời.
- Có những câu văn gọn mà độc đáo: “Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với chết “. Có những câu tạo ra hình ảnh gợi cảm: “Hãy cùng với chúng tôi giật đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”. Lại có những câu văn tạo được độc đáo và giàu hình ảnh: “Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào giữa chúng ta và họ. Trong thế giới AIDS khốc liệt này không có khái niệm giữa chúng ta và họ”.
c. Ý nghĩa của bản thông điệp
Là tiếng nói kịp thời trước một nguy cơ đang đe dọa cuộc sống của loài người, thể hiện thái độ sống tích cực, một tinh thần trách nhiệm cao tình yêu thương nhân loại sâu sắc.
Audio Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003
Video Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003
B. Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan
Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan – Mẫu 1
Hàm chứa thông tin đặc biệt về một vấn đề thực sự bức thiết đối với cuộc sống của cộng đồng. Cái gọi là “bức thiết” đó phải mang tính khách quan chứ không phải, không thể là một sự “bức thiết” dược nguy tạo nhằm những mục tiêu không trong sáng, cao thượng.
Được nói (viết) bới một con người có nhân cách cao quý, có uy vọng lớn trong xã hội, biết đảm bảo sự thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Có lẽ chưa ai đo mức độ tác động của lời kêu gọi mà Cô-phi An-nan phát ra nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003, nhưng đối chiếu những điều được phản ánh trong bản thông điệp với tình hình thế giới hiện nay, ta có cơ sở để nói rằng, đây là văn kiện thực sự có ý nghĩa đối với cuộc sống toàn nhân loại.
Đối tượng hướng tới của bản thông điệp là tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội, mọi quốc gia trên trái đất. Chính cương vị Tổng thư kí Liên hợp quốc của Cô-phi An-nan đã đặt bản thông điệp chống HIV/AIDS vào một tương quan phát – nhận có tầm vóc toàn cầu mà không phải bản thông điệp nào, của ai cũng đạt tới được. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là người phát thông điệp không tự tách mình ra như một cá nhân ưu trội, chỉ biết đến sự yêu cầu, sai khiến hay truyền đạt, hô hào. Việc tự nhận thức được trách nhiệm hàng đầu của mình và của tổ chức do mình phụ trách không hề ngăn cản ông chọn cách phát biêu hết sức gần gũi và đầy tinh thần dân chủ. Do vậy, những lời trong bản thông điệp dễ được cảm nhận như là tiếng nói của lương tri ở mỗi chúng ta, và những thành tích hay sự trì trệ, tiêu cực được nêu lên trong đó được hiểu là những thành tích hay thiếu sót mà cả nhân loại không ai không dự phần trách nhiệm. Đại từ xưng hô “chúng ta” (we) được chọn dùng trong bản thông điệp quả đã có tác dụng thống nhất toàn thế giới vào một mặt trận, vào một mối quan tâm chung. Đó là sự lựa chọn tuyệt đối phù hợp.
Một bản thông điệp thường có độ dài vừa phải và mỗi câu nói đều chở nặng thông tin. Thông điệp nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, I – 12 – 2003 cũng có đặc điểm này và thông tin chính được dồn tụ ở mấy câu sau:
- “Chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình”.
- “Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết”.
- “Hãy cùng tôi đánh đổ các thành luỹ của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”.
Qua những câu then chốt đó, có thể xác định vấn để trung tâm mà bản thông điệp hướng tới là : chúng ta phải có những nỗ lực cao nhất để ngăn chặn đại dịch AIDS trên cơ sở lí trí sáng suốt, tình nhân loại và ý thức tự bảo vệ cuộc sống của mình.
Đã là một bản thông điệp, mọi điều được đưa ra (yêu cầu, đề nghị) đều phải có cơ sở pháp lí và đạo lí vững vàng. Thông điệp của Cô-phi An-nan cũng được xây dựng trên các yếu tố nền tảng như:
- Đã có cam kết quốc tế về việc chống HIV/AIDS với những mục tiêu và thời hạn cụ thể.
- Tuy vậy, chúng ta chưa hoàn thành được một số mục tiêu đặt ra cho năm 2003, “đã bị chậm trong việc giảm quy mô và tác động của dịch so với chỉ tiêu đã để ra cho năm 2005”.
- Trong khi đại dịch HIV/AIDS đang hoành hành dữ dội thì nhiều quốc gia vẫn chưa “đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình”, thêm nữa, thái độ kì thị đối với người bị HIV/AIDS vẫn còn phổ biến.
Nói một cách khái quát, cơ sở để Cô-phi An-nan phát lời kêu gọi kiên quyết tuyên chiến với HIV/AIDS chính là: “Ngày hôm nay, chúng ta đã cam kết và các nguồn lực đã được tăng lên. Song những hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế”.
Để thuyết phục mọi người hiểu ràng các nỗ lực chống HIV/AIDS của chúng ta thời gian qua là hoàn toàn chưa đủ, tác giảbản thông điệp đã chú ý làm rõ tốc độ lây lan chóng mặt của “căn bệnh thế kỉ” cùng với những con số và sự kiện xác thực. Với tốc độ lây lan ấy, đại dịch HIV/AID thường vẫn đẩy con người vào thế bị động để khiến con người luôn phải tự kiểm điểm với những câu nói bắt đầu bằng cụm từ “lẽ ra” – một cụm từ thể hiện sự hối tiếc, ân hận, day dứt: “Lẽ ra chúng ta phải giảm được 1/4 số thanh niên bị nhiễm HIV ở các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất; lẽ ra chúng ta phải giảm được một nửa tỉ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm; và lẽ ra chúng ta phải triển khai các chương trình chăm sóc toàn diện ở khắp mọi nơi”.
Như đã nói ở trên, một trong những điều cơ bản làm nên sức thuyết phục của bản thông điệp chính là uy tín cá nhân của tác giả – cái vốn tồn tại vừa như một yếu tố phụ trợ bên ngoài lại vừa như là một thành tố cấu trúc của nó. Đọc bản thông điệp, ta thấy khá rõ tầm nhìn, bản lĩnh và tâm huyết của tác giả – người đứng đầu tổ chức Liên hợp quốc: khả năng bao quát vấn đề rộng, nhanh chóng nhìn ra điểm mấu chốt; dám đối diện với những bất cập của hoạt động phòng chống HIV/AIDS trên thế giới hiện nay và phê phán nó một cách thẳng thắn; đầy tinh thần trách nhiệm và tình thương yêu đối với con người… Nhìn chung, đoạn văn được viết ra trên tinh thần đối thoại bình đẳng, hoàn toàn không gợi lên sự cách bức về địa vị xã hội giữa người nêu và người tiếp nhận bản thông điệp. Nó đánh thức lương tâm và tinh thần cộng đồng ở mỗi người. Nó cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa việc bảo vệ hạnh phúc chung cho nhân loại và việc bảo vệ hạnh phúc riêng cho từng cá nhân con người: “Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “chúng ta” và “họ””. Đặc biệt, bản thông điệp còn chứa đựng những cách nói đầy ấn tượng, gần như minh triết: “Trong thế giới khốc liệt của A1DS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết”.
Thông điệp nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 là văn kiện giàu giá trị nhân văn và có khả năng thôi thúc hành động mạnh mẽ. Nó tuy ngắn mà có sức vang vọng, giúp chúng ta nhận thức rõ ý nghĩa vô cùng hệ trọng cúa cuộc đấu tranh chống lại đại dịch HIV/AIDS hiện nay trên thế giới, Tiếp nhận bản thông điệp, mỗi người chúng ta đều phải thấy rõ trách nhiệm của mình, không được thờ ơ, vô cảm hay khoanh tay đứng nhìn. Muốn bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của chính bản thân và của nhân loại, dứt khoát chúng ta phải có những hành động cụ thể nhằm chống lại HIV/AIDS. Khi hành dộng, bên ta luôn có một người bạn đổng hành đáng tin cậy là chính Tổng Thư kí Liên hợp quốc Cô-phi An-nan.
Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan – Mẫu 2
1. Những tri thức bổ trợ
a. Một vài thông tin về căn bệnh HIV/AIDS
Để hiểu được văn bản này, cần có một số hiểu biết tối thiểu về căn bệnh được coi là căn bệnh thế kỷ này.
AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficelency Syndrome”, nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phỉa, trong tiếng Pháp, thuật ngữ tương đương là SIDA, viết tắt “Syndrom de L’immunodéficience Acquise”. Thông thường, cơ thể chúng ta có khả năng miễn dịch và tự đề kháng chống lại nhiều bệnh tật, nhưng khi mắc phải bệnh này, cơ thể mất sức đề kháng, dẫn đến tử vong nhanh. Tác nhân gây ra bệnh là loại vi-rút gây suy giảm hệ miễn dịch trong cơ thể. Các đường lây lan chính của HIV là con đường sinh hoạt tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm với người sử dụng ma túy tiêm vào đường tĩnh mạch, đường lây lan từ mẹ truyền sang con nếu mẹ bị bệnh.
Người ta gọi nhiễm HIV là chỉ chung tất cả những ai đã mạng HIV trong cơ thể. Khi người nhiễm HIV đã ở mức độ trầm trọng, suy giảm miễn dịch cơ thể ở mức xét nghiệm máu có số Lympho bào T4< 200/m hoặc sức khỏe bị sa sút với nhiều chứng bệnh nguy hiểm. Từ lúc nhiễm HIV đến lúc bị AIDS có thể trải qua một thời gian và khi đến giai đoạn AIDS thì rất nguy hiểm đến tính mạng.
Hiện nay, chưa có cách nào đối phó hữu hiệu khi đã nhiễm bệnh. Cách tốt nhất là đề phòng đừng để bị nhiễm bệnh.
Theo báo cáo của Chương trình thống nhất của Liên hợp quốc về HIV/AIDS tháng 12 năm 2006, tổng số người chung sống với HIV trên thế giới là 39,5 triệu; số người nhiễm HIV trong năm 2006 là 4,3 triệu; số người chết vì AIDS năm 2006 là 2,9 triệu (TNT dẫn theo Wikipeda, bản tiếng Nga).
b. HIV/AIDS là căn bệnh thế kỷ của toàn thế giới
Do quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, căn bệnh này không cô lập ở riêng quốc gia nào mà lây lan khắp thế giới. Thực tế đòi hỏi nỗ lực chung của cộng đồng nhân loại thống nhất sức mạnh để chống lại căn bệnh thế kỷ này.
Vấn dề HIV/AIDS đòi hỏi thế giới phải thay đổi nhiều quan niệm cũ, nhưng không đặt vấn đề đạo đức của quan hệ tình dục mà là đặt vấn đề quan hệ tình dục an toàn; không kỳ thị và phân biệt đối xử với người bị HIV/AIDS…
2. Phân tích tác phẩm
a. Phân tích theo kết cấu
Bức thông điệp gồm ba phần chính:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến “quá ít so với yêu cầu thực tế”): nhắc lại sự nhất trí về mục tiêu, thời hạn mà Đại hộ đồng Liên hợp quốc đã thông qua năm 2001 và đến ngày hôm nay lại cam kết và các nguồn lực đã tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế.
- Phần thứ hai (tiếp theo đến “về chính trị và hành động thực tế của mình”): Nêu đối sánh một bên là những nỗ lực tăng lên và một bên là sự hoành hành dữ dội không có dấu hiệu suy giảm của căn bệnh HIV/AIDS. Từ đó, chỉ ra cần nỗ lực hơn nữa.
- Phần thứ ba (phần còn lại): Chỉ ra việc cần công khai lên tiếng về HIV/AIDS, không im lặng, không phân biệt đối xử với người bị nhiễm bệnh, kêu gọi mọi người trên toàn thế giới sát cánh trong cuộc chiến chung chống lại căn bệnh HIV/AIDS.
b. Phân tích theo nội dung
Đánh giá về đại dịch HIV/AIDS và những thành tựu cũng như hạn chế của nhân loại trong việc đối phó với nạ dịch này.
Là một bức thông ddiepj, văn bản cần hết sức ngắn gọn và chính xác, trong phần thứ hai của thông điệp, tác giả ghi nhận những nỗ lực của thế giới về phương diện là thành lập Quỹ toàn cầu về phòng chống HIV/AIDS. Không những ở tầm quốc gia, quốc tế mà ở tầm các công ti, các tổ chức từ thiện (các tổ chức phi chính phủ như ta quen gọi) đang hoạt động tích cực cùng các tổ chức chính phủ và quốc tế ứng phó với đại dịch này.
Phần quan trọng của bản thông điệp là nêu những thông tin ngắn gọn nhưng thẳng thắn, không quanh co về nguy cơ to lớn của căn bệnh này: HIV/AIDS vẫn hoành hành, gây tử vong ở tỉ lệ cao trên thế giới và rất ít dấu hiệu suy giảm. Những con số thống kê đầy ấn tượng cho một cái nhìn toàn cảnh về căn bệnh này:
- Về thời gian: “Mỗi phút đồng hồ của một ngày trôi đi, có khoảng 10 người bị nhiễm HIV”.
- Về không gian: “Ở những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, tuổi thọ của người dân bị giảm sút nghiêm trọng”, “và “Bệnh dịch này đang lan rộng nhanh nhất ở chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn – đặc biệt là Đông Âu và toàn bộ khu vực Châu Á – từ dãy U-ran đến Thái Bình Dương”.
- Về giới tính của người bị nhiễm bệnh: “HIV/AIDS đang lây lan với tốc độ báo động ở phụ nữ. Giờ đây, phụ nữ đã chiếm tới một nửa trong tổng số người nhiễm trên toàn thế giới”.
c. Phân tích nguyên nhân, tác giả chỉ rõ:
“Chúng ta đã không hoàn thành được một số mục tiêu đề ra cho năm nay theo Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS”.
“Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta đã bị chậm trong việc giảm quy mô và tác động của địch so với chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2005. Lẽ ra chúng ta phải giảm được 1/4 số thanh niên bị nhiễm HIV ở các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất; lẽ ra chúng ta phải giảm được một nửa tỉ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm; lẽ ra chugns ta phải triển khai các chương trình chăm sóc toàn diện ở khắp mọi nơi”. Một laotj các khả năng đã không thành hiện thực đẻ phải đánh giá “Với tiến độ như hiện nay, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào năm 2005”.
Những nhiệm vụ đòi hỏi nhân loại phải nỗ lực hơn nữa:
Sau khi đánh giá có tính chất phê phán, bản thông điệp khẳng định nhân loại cần nỗ lực hơn nữa “bằng những nguồn nhân lực và hành động cần thiết”. Theo tác giả, “Chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình”. Nhận định này hoàn toàn có cơ sở vì như chúng ta đã thấy những con số dẫn ở trên đây, cứ mỗi phút trôi qua, có khoảng 10 người bị nhiễm HIV, và năm 2006 số người chết vì AIDS lên tới 2,9 triệu người.
Căn bệnh AIDS đã trở thành một sự thật hiển nhiên mà sự từ chối, lảng tránh đều trở nên vô nghĩa; và thái độ đối với người nhiễm bệnh cũng cần thay đổi. “Chúng ta phải công khai lên tiếng về AIDS. Dè dặt, từ chối đối mặt với sự thật không mấy dễ chịu này, hoặc vội vàng phán xét đồng loại của mình, chúng ta sẽ không đạt được tiến độ hoàn thành các mục tiêu đề ra, thậm chí chúng ta còn bị châm hơn nữa, nếu ự kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục diễn ra đối với người bị HIV/AIDS”. Đây là cách nhìn hoàn toàn mới, rất tích cực và hiện thực về người nhiễm căn bệnh thế kỷ. Ngay ở Việt Nam, chúng ta cũng chưa hẳn là đã từ bỏ cách nhìn cũ, phân biệt đối xử với họ. Tác giả kêu gọi: “Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “chúng ta” và “họ”. Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết.
Như vậy, có hai ý tưởng chính của bức thông điệp, đó là: kêu gọi lên tiếng tức không né tránh, nói về căn bệnh thế kỷ, “lên tiếng thật to và dõng dạc về HIV/AIDS”; và từ bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm bệnh. Hai yêu cầu thật giản dị nhưng là để chiến thắng sức ỳ tâm lý của nhân loại.
3. Đặc điểm về nghệ thuật
Bản thông điệp là một văn kiện có tầm quốc tế, bàn về một vấn đề cấp thiết đang đặt ra trước toàn nhân loại. Có thể xem đây là một mẫu mực về lối văn nghị luận.
Kết cấu bản thông điệp rất rõ ràng, chặt chẽ. Các phần của bài viết không dài dòng, quanh co, chung chung mà đi thẳng vào vấn đề trọng tâm cần nói. Liên hệ về ý nghĩa các phần rất chặt chẽ.
Cách trình bày tư tuonwgr từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng ta) cũng là một nét nghệ thuật tinh tế: tất cả chúng ta đang sống trong thời đại có đại dịch HIV/AIDS, chúng ta cần sát cánh để thực hiện các nỗ lực… Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều này đặt tất cả người nghe vào vị trí của người tham gia, người trong cuộc chứ không phải là người quan sát thờ ơ bên ngoài.
Người viết bản thông điệp biết cách thể hiện cảm xúc của mình khi chuyển ngôi từ “chúng ta” sang “tôi”: “tôi kêu gọi”, “Hãy cùng tôi đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kỳ thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”, “Hãy sát cánh cùng chúng tôi”,… những lời kêu gọi xuất phát từ “tôi” chứ không phải chúng ta thể hiện cảm xúc và trách nhiệm của tác giả, trên cương vị Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan – Mẫu 3
Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS là thông điệp của Tổng thư ký Liên hợp quốc Cô-phi- An-nan gửi nhân dân thế giới nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003.
Bản thông điệp khẳng định rằng dù đã có nhiều cố gắng, xong chúng ta hành động còn quá ít so với yêu cầu của thực tế. Vì vậy mà đại dịch HIV/AIDS hoành hành, có rất ít dấu hiệu suy giảm; chúng ta đã không hoàn thành được một mục tiêu và sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào năm 2005.
Bản thông điệp kêu gọi: “Phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế”; phải tích cực hơn nữa trong việc đẩy lùi đại dịch, đối mặt với sự thật, không vội vàng phán xét đồng loại; “đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử” với những người bị HIV/AIDS, sát cánh cùng nhau để chống lại đại dịch này.
Để khẳng định “hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế”, đầu tiên, tác giả nhấn mạnh haii điều đã làm tốt là có cam kết, nguồn lực được tăng lên. Cụ thể về nguồn lực: ngân sách cho phòng chống HIV tăng, đã có Quỹ toàn cầu về phòng chống AIDS. Về cam kết: các quốc gia, các công ty, các tổ chức từ thiện đều có chiến lược, chính sách và hoạt động phối hợp.
Như vậy, trong ba điều thì đã có hai điều làm tốt. Nhưng vì hành động vẫn quá ít cho nên mới dẫn đến kết quả rất đáng lo ngại:
Nạn dịch vẫn hoành hành, có rất ít dấu hiệu suy giảm.
Mỗi phút có khoảng 10 người nhiễm HIV.
Tuổi thọ bị giảm sút nghiêm trọng.
Tốc độ lây lan báo động ở phụ nữ.
Bệnh lây lan sang những vùng trước đây an toàn, đặc biệt là Đông Âu và toànn bộ châu Á.
Điều đó dẫn đến không hoàn thành mục tiêu đề ra cho năm 2005 (Giảm ¼ số thanh niên bị nhiễm HIV ở các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất; giảm ½ tỉ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm và triển khai chương trình chăm sóc toàn diện ở khắp nơi). Và đặc biệt, sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào năm 2005.
Tác giả đưa ra những điều đã làm tốt để vừa động viên, vừa nhấn mạnh rằng chỉ vì hành động quá ít so với yêu cầu cho nên kết quả là yếu kém. Các dẫn chứng về sự yếu kém rất cụ thể, chi tiết nên tính thuyết phục cao.
Tổng thư kí Liên hợp quốc kêu gọi các quốc gia và tổ chức “phải đưa vấn đề AIDS lên vị tró hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế”; phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong hành động. Với mọi người, ông kêu gọi:
Công khai lên tiếng về AIDS, đối mặt với thực tế không mấy dễ chịu như dẫn chững đã nêu:
Không vội vàng phán xét đồng loại của mình.
Không kì thị và phân biệt đối xử với người nhiễm bệnh.
Không ảo tưởng về sự bảo vệ bằng cách dựng lên hàng rào ngăn cách với người bị nhiễm HIV.
Sát cánh với ông trong cuộc chiến chống HIV/AIDS.
Tác giả nêu lên những cố gắng của mọi người để động viên, sau đó dẫn chứng về dịch hoành hành để khẳng định rằng: hành động của chúng ta vẫn quá ít so với việc yêu cầu thực tế; đồng thời nêu lên nguy cơ không đạt được bất cứu mục tiêu nào vào năm 2005. Từ đó kêu gọi phải nỗ lực đoàn kết, thống nhất hành động nhiều hơn.
Lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể bằng các số liệu thống kê, tác giả thuyết phục người đọc, người nghe bằng sự chân thành, nhiệt tình và nghệ thuật lập luận (nhấn mạnh ưu điểm, nói thằng khuyết điểm, nói rõ các việc cần làm và có thể làm được).
Bản thông điệp khẳng định việc phòng chống HIV/AIDS phải là mối quan tâm hàng đầu của nhân loại, và những cố gắng của chúng ta còn quá ít. Tác giả tha thiết kêu gọi hãy coi việc chống đại dịch này là cuộc chiến, mọi người phải đối mặt với sự thật, không vội vàng phán xét đồng loại và chung tay “đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này”.
Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:
- Soạn bài lớp 12: Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS
- Tóm tắt Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 (Cô-phi-annan)
- Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Phân tích tác phẩm Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 của Cô-Phi An-Nan. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12, Soạn bài lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)