Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi trong đoạn trích sách giáo khoa là tài liệu tham khảo môn Văn hay, luyện thi đại học môn Văn cũng như ôn thi cuối học kì 2 môn Văn dành cho các bạn học sinh tham khảo, ôn luyện.

Bài phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi vừa được TaiLieuViet.vn sưu tập và xin gửi tới bạn đọc để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết dưới đây gồm có dàn ý bài phân tích, bản audio và video bài phân tích, tổng hợp 10 mẫu bài phân tích. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết tại đây.

khái quát chung về tác phẩm Những đứa con trong gia đình

a. Hoàn cảnh ra đời

“Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi ra đời vào những năm mà cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai bước vào giai đoạn gay go, ác liệt. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt. Khi nhà văn công tác ở tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”.

b. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề của truyện trước hết chính là Việt và Chiến “Những đứa con trong gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương cách mạng. Mở rộng hơn còn có thể hiện đó là thế hệ trẻ miền Nam, những người con của “Đại gia đình” miền Nam ruột thị trong những năm chống Mĩ ác liệt. Nhan đề gợi lên mối quan hệ giữa riêng và chung, nhà với nước, tình yêu nước với tình yêu cách mạng.

c. Bố cục (2 phần)

Phần 1 (từ đầu đến “đang bắt đầu xung phong”): Việt bị thương ở chiến trường, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lần thứ tư Việt tỉnh dậy, Việt lắng nghe mọi âm thanh, chờ đồng đội đến và sẵn sàng chiến đấu.

Phần 2 (còn lại): Kí ức của Việt về câu chuyện hai chị em tranh nhau đi tòng quân.

d. Giá trị nội dung

Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hướng cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

e. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo.

Nghệ thuật trần thuật (nghệ thuật kể chuyện) qua dòng hồi tưởng của nhân vật góp phần giúp nhân vật bộc lộ tính cách của mình và tác phẩm đậm chất trữ tình.

Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ.

Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa gây ấn tượng mạnh đến người đọc, làm nổi rõ góc cạnh của cuộc sống.

1. Dàn ý Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

I. Mở bài

– Tác giả Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ miền Nam, thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm của ông phản ánh hiện thực nóng bỏng của chiến trường Nam Bộ và vẻ đẹp con người nơi đây.

Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Nam Bộ.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp dòng sông truyền thống gia đình

– Gia đình kiên cường chịu nhiều đau thương trong chiến tranh: ông nội bị giặc giết, cha của Việt bị giặc chặt đầu, má bị trúng đạn của Mĩ, thím Năm bị giặc bắn chết. Đau thương đã nhen nhóm ngọn lửa căm thù trong mỗi thành viên.

a. Vẻ đẹp của khúc sông trước

– Cha Việt và Chiến là cán bộ Việt Minh, kiên cường, trung thành với cách mạng đến cùng đến đã bị giết hại.

– Má là một người phụ nữ mạnh mẽ, gan góc: dám đi đòi lại đầu chồng, đối đáp với bọn giặc Mĩ mà không hề run sợ, biết nén đau thường thành lòng hận thù. Mặt khác cũng là người phụ nữ tháo vát, yêu thương chồng con.

– Chú Năm là là người luôn lưu giữ truyền thống gia đình (cuốn sổ), là người lao động chất phác có tâm hồn nghệ sĩ, hết lòng vì cách mạng (thu xếp cho cả hai chị em đi tòng quân).

– Nhận xét: đây là khúc sông thượng nguồn, kết tinh những vẻ đẹp truyền thống để truyền cho khúc sông sau phát huy.

b. Vẻ đẹp của khúc sông sau

*Nhân vật Chiến:

– Chiến cũng có những nét khác biệt so với má: trẻ trung hơn, được tự tay cầm súng để trả thù cho người thân.

– Là một cô gái kế thừa được sự kiên cường từ người thân trong gia đình: “nếu giặc còn thì tao mất”

*Nhân vật Việt:

– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn: hiếu động, ngây thơ, trẻ con

+ Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, …

+ Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun, …

+ Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

+ “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.

+ Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ “khóc đó rồi cười đó”.

– Việt cũng là một chiến sĩ dũng cảm:

+ Khi còn nhỏ đã dám xông vào đá thằng giặc giết cha mình.

+ Khi lớn lên tranh giành đi tòng quân với chị Chiến dù chưa đủ tuổi. Trong quân ngũ Việt chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc.

+ Dù đang bị thương nặng nhưng vẫn luôn trong tư thế chiến đấu, không hề run sợ: “Tao sẽ chờ mày … mày là thằng chạy”.

– Nhận xét: Việt và Chiến chính là khúc sông sau, kế thừa những tinh hoa của khúc sông trước và chảy xa hơn khúc sông trước.

2. Hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má gửi nhà chú Năm

– Đó là sự tôn trọng, hiếu thảo với cha mẹ đã khuất

– Không khí thiêng liêng đã khiến Việt cảm thấy mình trưởng thành hơn: Biết thương chị, cảm nhận sâu sắc mối thù đè nặng trên vai.

– Thể hiện sự trưởng thành của hai chị em, đã biết tự lo toan mọi điều, gánh vác những công việc quan trọng trong gia đình.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, kể theo mạch hồi tưởng đứt nối của nhân vật Việt, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giọng kể giàu chất sử thi, …

  • Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Nam Bộ, khẳng định truyền thống gia đình và dân tộc là sức mạnh to lớn để chống lại kẻ thù xâm lược.

Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

2. Nghe đọc Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

3. Video Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình

4. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 1

Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, ông vào Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Năm 1962, ông tình nguyện trở về Nam, công tác tại Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu nóng bỏng của chiến trường là nguồn cảm hứng vô tận để ông sáng tác bút kí, truyện ngắn và tiểu thuyết với bút danh Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ tình.

Nguyễn Thi viết được nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi hi sinh, các sáng tác của ông được sưu tập và in trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển) xuất bản năm 1996. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ và khẳng định: lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng là sức mạnh tinh thần to lớn của họ trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Truyện kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người chú để cùng tham gia bộ đội, trực tiếp cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước. Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.

Đoạn trích có thể chia làm hai cảnh, cảnh một: Tác giả kể về tình huống và tâm trạng của Việt lúc bị thương. Cảnh hai: Việt nhớ lại chuyện hai chị em tranh nhau xin nhập ngũ và sau đó cùng thu xếp việc nhà để lên đường đi chiến đấu. Ở cảnh một, lần thứ tư tỉnh lại, trong kí ức Việt hiện lên những kỉ niệm vui buồn về người mẹ thân yêu luôn đùm bọc, che chở cho các con: Má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?

Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi chọn những chi tiết điển hình hàm chứa nhiều ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Mỗi lần bọn lính bắn dọa, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển… Đó là hình ảnh của người phụ nữ miền Nam gan góc, kiên cường, yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và rất mực thương chồng thương con. Cuộc sống lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, vượt qua để nuôi con, đánh giặc.

Hình ảnh chú Năm hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện đang phân vân không biết giải quyết thế nào trước tình cảnh hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên nhập ngũ thì chú Năm đứng ra bảo lãnh cho cả hai: Từ dưới sân, chủ Năm bước lên. Chú nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:

– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.

Chú Năm cẩn thận ghi chép đầy đủ tội ác dã man của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú Năm bàn giao cuốn sổ cho hai chị em:

Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước – Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.

Cuốn sổ tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì đặc biệt lớn bởi nó vừa biểu dương công trạng của từng thành viên, vừa là một tấm bia căm thù, vừa thể hiện quyết tâm đánh giặc của một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ do thế hệ cha chú giữ gìn và ghi chép, nay con cháu đã trưởng thành, chú Năm bàn giao lại cho thế hệ trẻ viết tiếp. Vì vậy, cuốn sổ cũng chính là câu chuyện về cha con, chú cháu cùng đánh giặc để giải phóng quê hương. Điều đó thể hiện một cách giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến của lịch sử Việt Nam, quy luật của sức sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã trở thành sự nghiệp chung của nhiều thế hệ.

Là một nông dân chất phác và giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một việc, tâm hồn chú Năm lại lâng lâng bay bổng, dạt dào cảm xúc. Chú gửi gắm tình cảm tha thiết của mình vào tiếng hò, tiếng hát quen thuộc của quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin rằng các cháu đã đủ sức gánh vác việc lớn của xã hội. Trong lòng vui vẻ, chú cất lên tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ, lời thề:

Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.

Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả nhiều như nhân vật Việt nhưng vẫn hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ đảm đang, vị tha, nhân hậu. Những gì quen thuộc, tiêu biểu trong phẩm chất đáng quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng sâu đậm trong cô con gái có cái tên rất con trai là Chiến. Bởi thế nên mỗi khi nghe chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra má và thấy chị sao mà giống má đến thế! Điều đó làm cho Việt bùi ngùi nhớ má và càng thương chị hơn. Hai chị em tuy có hai tính cách khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ đều ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng của gia đình, dòng họ, láng xóm, quê hương.

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật được nói đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn như hồn nhiên, hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường.

Ở cảnh một, nhà văn đã để cho nhân vật Việt xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa trận địa vắng lặng đến ghê người sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của hiểm nguy, của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Nguyễn Thi đã viết thật hay, thật cảm động về cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất của chàng tân binh trơ trọi một mình, lại bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói khát. Ngón tay Việt đau không còn kéo nổi cò bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Anh ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Ở trạng thái như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn là sẽ nhở lại những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã thực sự làm nên đời sống tinh thần của mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt nhớ đến những đồng đội, người thân, tác giả đã khẳng định rằng gia đình là cội nguồn sức mạnh của con người và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng:

…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…

Có một chi tiết khá thú vị là đánh giặc Việt không sợ nhưng vẫn rất sợ ma. Tuy mới nhập ngũ nhưng Việt tỏ ra là một chiến sĩ thông minh, phân biệt rõ tiếng súng của ta, tiếng súng của giặc; phán đoán được tình huống của trận đánh: Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.

Tuy đang lâm vào tình huống hiểm nghèo nhưng Việt vẫn hướng về đồng đội, tin tưởng vào chiến thắng: Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…

Đối mặt với cái chết, Việt cố gắng tìm về với cuộc sống: Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…

Đời người lính chiến, giữa hi sinh tính mạng và chịu đựng khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì hi sinh tính mạng dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể về nghị lực phi thường của Việt là khúc ca ca ngợi tinh thần dũng cảm của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.

So sánh nhân vật Chiến và Việt, ta thấy điểm giống nhau của hai chị em là đều có một tình yêu quê hương, đất nước và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu trong tâm khảm mối thù không đội trời chung với những kẻ đã giết hại ba má và đồng bào mình. Từ đó, hai chị em xác định mục đích của cuộc đời mình là phải trả thù bằng được cho ba má, cho quê hương. Chính vì mối thù này mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm đánh giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể rằng chú Năm nói lần này hai chị em ra đi chiến đấu, thù ba má chưa trả được mà trở về thì chú chặt đầu, Việt nói tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến thì cũng khẳng khái nói: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!

Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Thi chính là ở chỗ ông đã có cách miêu tả khác nhau nên Chiến và Việt hiện ra với cá tính riêng không thể lẫn.

Hơn em một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra là một người chị khôn lớn, đảm đang, việc gì cũng nhận lãnh về mình. Ba má đã khuất, Chiến sớm ý thức được vai trò của người chủ gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lửa tuổi để thay ba má lo liệu việc nhà, bảo ban các em.

Việt là em nên ỷ lại mọi việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý mình. Chiến nhường nhịn em trong mọi việc nhưng có một việc Chiến kiên quyết không nhường, ấy là ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị thương em hết lòng cũng thể hiện ở chính điều đó. Thực ra, đây là một đức hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành về mình phần nguy hiểm để em được bình yên. Đoạn văn thuật lại cảnh hai chị em Chiến và Việt chuyện trò với nhau mộc mạc mà vô cùng cảm động:

– Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi.

Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng:

– Bộ mình chị biết đi trả thù à?

– Hồi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau.

– Má nói hồi nào?

Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm.

Là chị cho nên Chiến thường tỏ ra có sự tính toán chu đáo, còn Việt thì nông nổi, vô tư. Một trong những tình tiết cảm động nhất của câu chuyện này là cuộc bàn bạc của hai chị em vào cái đêm cuối cùng trước khỉ ra trận. Họ phải làm những phần việc quá sức so với độ tuổi của mình. Đó là việc nhà cửa, làm ăn, việc nuôi dạy thằng út em, việc hương khói cho ba má…

– Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng út cũng học ở đây. Mầy chịu không?

Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:

– Sao không chịu?

– Giường ván cũng cho xả mượn làm ghế học, nghen?

– Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tội chịu hết.

– Má dặn tao hồi nào? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vả, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen?

– Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…

…” Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đảng chia cho cô bác khác mần, nghen? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen?

– Ừ!

– Còn bàn thờ má em tính gởi đâu? Gởi sang chủ Năm cho thằng út nó coi chừng hay là để chị Hai về đem đi?

Việt ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về, nghe chị hỏi, Việt lại tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:

– Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ lo gì mà lo?

– Vậy chở ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không?

– Ừ!… Mà hồi đó má dặn chị vậy hả?

– Má cỏ biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường:

– Vậy mà nói nghe in như má vậy.

Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi.

Chị nói:

– Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy.

Đúng rồi, hèn chi chị nói nghe thiệt gọn. Vậy mà hồi nãy còn giành đi với mình. Việt nghĩ vậy, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

Chiến biết là Việt chưa lo toan nổi việc nhà, nhưng nhà chỉ có hai chị em nên Chiến vẫn đem việc nhà ra bàn với em một cách dân chủ. Tuy vậy, Chiến đã dự định từ trước, mọi việc đã được sắp xếp đâu ra đấy, khiến cho Việt cảm thấy chị mình chín chắn, già dặn giống in như má. Còn Việt, trong khi nghe chị nói thì lại để mắt đến mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến vẫn nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ lúc nào.

Câu chuyện trao đổi giữa hai chị em cũng bộc lộ phẩm chất đáng quý của tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ: đã ra đi là quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Điều đáng quý của hai chị em là rất thương yêu, lo lắng cho nhau và cả hai đều nhớ đến má: Hình như má cũng về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ? Chị em Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, cho nên dù cha mẹ đã khuất nhưng lời dạy của cha mẹ vẫn thấm sâu vào tâm trí, nhắc nhở các con trong từng suy nghĩ, từng lời nói và hành động.

Trước lúc lên đường Việt đi câu ít con cá về làm bữa cơm cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Người đọc không thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm: Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lân đầu tiên Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.

Chỗ hay nhất của đoạn văn trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng làm thay đổi cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng có thêm mùi hoa cam thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với Việt, cái không khí thiêng liêng ấy khiến anh trở thành người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rõ lòng mình, bỗng thương chị lạ và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương… Nếu để ý, người đọc sẽ thấy tác giả còn tô đậm sức vóc của hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… dang cả thân người to và chắc nịch của mình… nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt cũng ghé vào để khiêng. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức cầm súng đánh giặc như thế hệ của cha mẹ mình.

Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng đan xen với thực tại, vì thế mà đậm đà chất trữ tình và vô cùng sống động. Phẩm chất, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét. Trong kí ức nhân vật hiện lên rõ ràng từng kỉ niệm của quá khứ chưa xa. Đó là những ngày Việt được sống trong tình yêu thương của đồng đội, của những người thân yêu trong gia đình. Quá khứ này tạo điều kiện cho nhà văn có thể đi sâu vào thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Kết cấu của truyện không phụ thuộc vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi ra những dòng hồi tưởng về quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng sống động và có cá tính rõ nét. Nhờ ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ mà tác phẩm chân thực và sinh động.

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa giàu tính hiện thực vừa giàu tính trữ tình. Những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật Việt được tác già thể hiện bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tầm trạng của một chàng trai mới lớn, xa gia đình đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều đó phần nào phản ánh phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong cảnh ngộ nguy hiểm và chết chóc của chiến trường. Sự đau đớn do các vết thương trên thân thể gây ra không làm cho Việt khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, anh vẫn bình tĩnh sống với kí ức tuổi thơ gắn liền bao kỉ niệm vui buồn và tìm thấy ở đó nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ không phải qua chiến công mà là qua nghị lực phi thường và đời sống tình cảm phong phú của họ.

Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng thời đánh Mĩ còn được tác giả khai thác ở đời sống tinh thần giản dị mà cao đẹp của thế hệ trẻ miền Nam. Hai chị em Chiến, Việt là những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong chiến đấu họ lại là những chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm.

Thông qua truyện, Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập tới một vấn để có tính chất xã hội: Gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành nhân cách. Những người con được giáo dục tốt trong giá đình sẽ trở thành những thành viên tích cực và hữu ích cho xã hội. Ở từng nhân vật đều có sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc, thà hi sinh tất cả quyết giành độc lập tự do. Điều đó đã tạo nên sức mạnh to lớn của con dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

5. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 2

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.

Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi viết ngay trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng năm 1966. Nhân vật chính của truyện là Việt. Việt là một chiến sĩ giải phóng quân. Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại, Mẹ Việt một mình nuôi con vất vả rồi cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chi Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chi nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống ấy được chú Năm ghi tất cả vào cuốn sổ gia đình. Việt và Chiến hăng hái đi tòng quân giết giặc. Trong một trận chiến đấu, Việt hạ được một chiếc xe bọc thép của địch nhưng lại lạc đồng đội và bị thương nặng ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, về chị Chiến, chú Năm, đồng đội và anh Tánh… Anh Tánh và đồng đội tìm được Việt, đưa về điều trị một bệnh viện và sức khoẻ Việt dần dần hồi phục. Chuyện được kể theo dòng hồi ức của Việt trong những lần ngất đi tỉnh lại ấy.

Đặc sắc của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung, son sắt với cách mạng. Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc điểm của nhân vật Nguyễn Thi. Đó là: Căm thù giặc sâu sắc; Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc; Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung son sắt vời quê hương và cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình ấy, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điểm nói lên tài năng của Nguyễn Thi.

Trong dòng sông truyền thống gia đình này, chú Năm là khúc thượng nguồn, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú Năm là người lao động chất phác nhung giàu tình cảm. Tâm hồn chú Năm bay bổng, đạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Những lúc đó, chú Năm như đặt cả trái tim mình vào trong câu hò, tiếng hát.

Cùng với chú Năm, má Việt cũng là một hiện thân của truyền thống. Đây là một hình tượng người phụ nữ mang đậm những nét tính cách của nhân vật Nguyễn Thi. Rất gan góc, căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát. Cuộc đời lam lũ, vất vả chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con, đánh giặc. Một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng; hiên ngang đối đáp vời kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đang nép đước chân”; mỗi lần bọn lính bắn dọa “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”… Đó là hình ảnh của sự gan góc, chở che mang ý nghĩa biểu tượng về người phụ nữ ở một xứ sở như đất nước ta, cuộc sống thì lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng con người lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Má Việt đã ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà-nông lép má nhặt đem về vẫn còn nóng hổi. Trong quan niệm của Nguyễn Thi, người mẹ ấy cái phần thác chỉ là thể phách còn linh hồn thì bất tử, sống mãi tròng những đứa con. Không phải ngẫu nhiên mà vào cái đêm sắp xa nhà đi chiến đấu, những đứa con đểu cảm nhận không phải ai khác mà chính là người mẹ đã hiện về.

Chiến có những nét giống mẹ: gan góc, đảm đang tháo vát. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ nhân vật Chiến. Chiến là một tính cách đa dạng: vừa là một cô gái mới lớn, tính khi còn rất trẻ con, vừa là người chị biết nhường em,.. biết lo toan, đảm đang, tháo vát. So với người mẹ, Chiến không chỉ khác ở cái vẻ trẻ trung thích làm duyên làm dáng. Vận hội mới của cách mạng đã tạo điều kiện cho Chiến được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lới thề như dao chém đá của mình: “Đã lăm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất”.

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật xuất hiện nhiều lần nhất. Việt đã hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt ta, vừa là cậu con trai mới lớn, vừa là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm, kiên cường. Việt có cái nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính anh còn rất trẻ con, rất ngây thơ, hiếu động.

Nếu Chiến luôn biết nhường nhịn em, thì trái lại, Việt lại hay tranh giành phần hơn với chị. Việt rất thích đi câu ca, bắn chim, và đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo cả cái súng cao su ở trong túi. Mọi công việc trong nhà, Việt đều phó thác cho chị. Đêm trước ngày lên đường, Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách trang nghiêm còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con, “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lới tán tỉnh đùa tếu của anh em. Việt bị thương nằm lại ở chiến trường, đến khi gặp được đồng đội thì cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà “khóc đó rồi cười đó”,…

Tuy vẫn còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng thật đường hoàng, chững chạc trong tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Dòng máu nóng chảy trong người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ biết sợ trước sự bạo tàn. Cho nên, còn bé tí mà Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc đã giết hại cha mình. Việt đã nằng nặc đôi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch. Và đến khi bị trọng thương, một mình nằm giữa chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau điếng và rỏ máu, người thì khô khốc đi vì đói khát, Việt vẫn ớ trong tư thế chờ tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.”. Có thể nói, hành động giết giặc để trà thù nhà, đền nợ nước đã trở thành một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi.

Đọc Những đứa con trong gia đình, không ai có thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân… rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mời thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Trong cái không khí vô cùng thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình thành một người khác, trưởng thành và khôn lớn hơn. Một người hôn nhiên, vô tư như Việt, vào chính chính giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình, có khối, có trọng lượng cụ thể đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa biết bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương,…

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.

6. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 3

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông được mọi người gọi với cái tên rất gần gũi “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Trong những tác phẩm đặt sắc ấy nổi lên truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Năm 1978). Truyện viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi.

Thật vậy, nhan đề “Những đứa con trong gia đình” mang một hàm ý sâu xa của tác giả. Truyện kể về những đứa con trong gia đình có truyền thống cách mạng là gia đình hai chị em Chiến và Việt. Gia đình ấy cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của miền Nam Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.. Nguyễn Thi đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo: Việt – một anh giải phóng quân sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, ông nội và cha mẹ anh đều bị chết dưới tay kẻ thù. Chính mối thù nợ nước, nợ nhà không đội trời chung đó đã thúc đẩy anh tham gia cách mạng. Trong một trận đánh, Việt bị thương, lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại rất nhiều lần. Mỗi lần ngất đi tỉnh lại, quá khứ và hiện tại lại đan xen nhau trong tiềm thức của anh. Ở lần tỉnh lại thứ 4, kí ức về mẹ hiện về. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt đòi đi nhưng chị Chiến không cho. Anh nhờ chú Năm giúp đỡ. Chú đồng ý cho hai chị em Việt đi tòng quân. Chị Chiến thu xếp mọi công việc trước khi hai chị em lên đường… Trở về với thực tại, sau 3 ngày tìm kiếm, anh Tánh và đồng đội đã đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục.

Có thể thấy, truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật Việt. Nguyễn Thi đã để cho đứa con tinh thần của mình hồi tưởng lại đứt quãng sau mỗi lần anh ngất đi tỉnh lại ở chiến trường. Tuy dòng cảm xúc không được trôi chảy mạch lạc song ở mỗi lần Việt tỉnh dậy lại là một câu chuyện chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm này, chúng ta sẽ phân tích từng nhân vật một. Ở mỗi nhân vật mà nhà văn nhắc tới đều có một biểu tượng riêng về tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Trong đó, tình yêu gia đình làm nền tảng để cho gia đình Việt tuôn chảy một tình yêu bất diệt với quê hương.

Những thành viên trong gia đình đều rất gan góc, dũng cảm, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ giàu tình nghĩa thủy chung, son sắt với quê hương, với cách mạng. Mỗi một nhân vật trong truyện đều được Nguyễn Thi tả rất đặc sắc, hấp dẫn người đọc.

Trước hết, nhân vật Việt được coi là trung tâm của câu chuyện hiện lên thật chân thực và sắc nét. Anh là đứa con tiêu biểu của gia đình. Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Khi những người thân bị chết dưới tay giặc đều là những người việt yêu úy nhất: ông nội, ba mẹ. Gia đình chỉ còn lại chị Chiến, chú Năm, thằng út em với người chị nuôi đi lấy chồng xa. Việt hăng hái tham gia tòng quân giết giặc trả thù cho người thân, bảo vệ quê hương. Ở Việt ta luôn thấy được đó là “cậu tư” gan gạ, muốn lập nhiều chiến công như chị. Qua dòng hồi ức của Việt khi ngất đi tỉnh lại, ta còn thấy được, anh là một người tính tình trẻ con, vô tư, nghịch ngợm của tuổi mới lớn. Anh hay tranh giành với chị mình chuyện bắn tàu giặc Mĩ trên sông Định Thủy, anh có hành động “đá trái dừa rụng xuống mương” khi chị không cho đi tòng quân, sợ câu chuyện “con ma cụt đầu” mà chị hay kể. Đặc sắc nhất là cảnh hai chị em thu xếp mọi thứ để lên đường tòng quân. Khi ấy, Việt chỉ “lăn kềnh ra ván cười khì khì” trong khi chị Chiến lo toan mọi thứ. Cảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm là một hành động chứng tỏ Việt đã trưởng thành, sẵn sàng đối đầu với quân địch. Cái cách Việt thương chị mình cũng rất đáng yêu “ Giấu chị như giấu của riêng”… Ta còn bắt gặp một hình ảnh Việt gan dạ, quả cảm khi đi bộ được hai năm, anh đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch hay lúc anh bị thương, lạc đồng đội, anh không hề sợ mà vẫn rất bình tĩnh, với tư thế hội tụ đủ phẩm chất của người lính cụ Hồ, anh “đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵn sàng nổ súng.

Có thể thấy, Nguyễn thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Việt – đứa con cưng tình thần của ông với những tính cách đáng yêu, dễ mến, vô tư đời thường, ga dạ quả cảm trong chiến đấu.

Nhà văn tiếp tục lia ống kính của mình để khắc họa hình tượng nhân vật Chiến – chị của Việt – một người con gái cũng giống như Việt trải qua hoàn cảnh bi thương nhưng sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi. Ở chị ấy được thừa hưởng những nét đẹp từ người mẹ. Đó là người con gái gan dạ, đảm đang, tháo vát nhưng cũng căm thù giặc sâu sắc. Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu bộ đội nữ địa phương. Chị chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc” với câu nói bất khủ “Nếu giặc còn thì tao mất” và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương. Chiến vừa làm ba, vừa làm mẹ, vừa làm chị để chăm lo, lấp đầy khoảng trống cho các em. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện trong nhà đã được cô sắp xếp đâu vào đó khiến cho chú Năm cũng phải hết sức ngạc nhiên mà thốt lên: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của người đi trước đối với lớp người trẻ kế cận họ. Việc cô ngăn không cho em đi tòng quân không phải vì sợ Việt tranh cướp công lao của cô mà cô hiểu rất rõ, với vai trò của người đi trước, co đã tham gai kháng chiến, cô hiểu rất rõ sự tàn khốc của chiến tranh nó ghê gớm đến nhường nào, cô sợ Việt bị thương. Qua đó, người đọc thấy được tình yêu ruột thịt máu mủ sâu sắc đến nhường nào. Nó là phương thuốc hữu hiệu nhất để gắn kết mỗi thành viên trong gia đình lại với gần nhau hơn.

Ta thấy Chiến hiện lên thật giản dị, thật đẹp dưới cái nhìn phác họa đầy lí tưởng của tác giả. Ở cô gái trẻ ấy hội tụ mọi vẻ đẹp của người con gái Việt Nam “đảm việc nước, giỏi việc nhà”. Chính những sự hi sinh thầm lặng mà lớn lao của người phụ nữ ấy đã góp phần vào thắng lợi của dân tộc.

Thật là thiếu xót nếu như không có nhân vật chú Năm. Chính chú Năm là hiện thân của truyền thống, là khúc thượng nguồn trong “dòng sông truyền thống” của gia đình Việt. Chú là người ghi lại tất cả những sự kiện diễn ra trong gia đình. Ở chú Năm hiện lên một hình ảnh người lao động chất phác nhưng giàu tình cảm. Chú cũng biết hò và Việt là nơi gửi gắm những câu hò của chú. Chú Năm ghi chép cẩn thận và đầy đủ tội ác của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên trong gia đình. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú đã giao cuốn sổ cho hai chị em. Cuốn sổ đó tuy nhỏ nhưng rất ý nghĩa. Nó là thước phim ghi lại một cách chân thực, chi tiết nhất những chiến tích của gia đình và tội ác của quân giặc. Nó dấy lên lòng căm thù giặc, món nợ lớn nhất phải trả. Cùng với chú Năm, má Việt cũng là hiện thân của truyền thống. Là người phụ nữ gan góc, rất mực thương chồng con và có lòng căm tù giặc sâu sắc. Mỗi lần bọ lính bắn dọa “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông vượt biển”. Má Việt đã ngã xuống song hình ảnh người phụ nữ ấy luôn bất tử trong lòng các con.

“Những đứa con trong gia đình” đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là một truyện ngắn đặc sắc bởi giọng văn trần thuật khắc họa miêu tả tâm lí nhân vật Chiến, Việt, Chú Năm…, Nguyễn Thi đã dựng nên một gia đình có truyền thống yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc, mối thù nợ nước nợ nhà. Qua đó, tác giả giúp người đọc thêm đồng cảm với cảnh ngộ éo le, thêm yêu thương quý trọng gia đình, biết ơn công lao của những người cách mạng.

Tóm lại, truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” thể hiện rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều phương diện. Truyện không những phác họa thành công hình tượng của người con yêu gia đình, yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện tình yêu của chính tác giả vào những đứa con tinh thần của mình. Ông xứng đáng được coi là “Nhà văn của người dân Nam Bộ”.

7. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 4

Nguyễn Thi – một con người tài hoa, sáng tác trên nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ngòi bút của tập trung chủ yếu vào những người dân Nam Bộ yêu nước mãnh liệt, có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tinh thần chiến đấu kiên cường. Những đứa con trong gia đình có thể coi là kết tinh phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 – giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng, ác liệt.

Tác phẩm được xây dựng dựa trên tình huống Việt – một chiến sĩ giải phóng quân bị thương, lạc đồng đội giữa cánh rừng cao su. Đây là trận đánh đầu tiên của Việt nhưng đã lập được chiến công vang dội: dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép và sáu tên Mĩ lẻ. Anh chịu tổn thất nặng nề, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại Việt lại có dòng hồi ức miên man về gia đình, về những kỉ niệm ngày xưa. Câu chuyện được kể lại là những dòng hồi ức đứt nối giữa những lần chợt ngất đi tỉnh lại của Việt. Xây dựng tình huống này, tác giả nhằm khẳng định tình cảm lớn lao bao giờ cũng bắt nguồn từ những gì gần gũi, bình dị nhất.

Việt bị thương trong một lần đánh giặc, cậu bị lạc đồng đội, bị ngất đi và tỉnh lại nhiều lần, trong những lần ấy, Việt nhớ về những kỉ niềm khi còn ở nhà, nhớ về cuốn sổ gia đình và những kỉ niệm trẻ thơ. Một cách rất tự nhiên tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật từ trần thuật về cuộc đời mình, khiến cho câu chuyện chân thực và giàu cảm xúc hơn.

Việt sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ rạng rỡ những chiến công và có nhiều đau thương mất mát. Cha của Việt bị chặt đầu, chỉ có ba mẹ con nhưng dám dắt díu nhau đi đòi lại đầu chồng, không hề run sợ trước những lời hăm dọa của kẻ thù. Không chỉ vậy, má của Việt cùng ông nội và thím Năm đều chết dưới sự tàn sát, bom đạn của kẻ thù. Gia đình anh hùng mà cũng đầy đau thương, mất mát. Đây đồng thời cũng là hoàn cảnh chung của những gia đình Nam Bộ lúc bấy giờ.

Việt là một người giàu tình cảm, luôn dành tình yêu thương sâu nặng nhất cho gia đình. Giữa lúc nằm một mình ở rừng, cái chết đang cận kề, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, điều cậu nghĩ tới đầu tiên chính là gia đình, là má của mình, và trong những lần ấy cậu còn tưởng má mình đang ở quanh đâu đây. Và ngay cả đêm trước khi lên đường ra chiến trường, nhìn vào hình ảnh chị Chiến cậu cũng liên tưởng đến má. Dù má đã mất, nhưng tình yêu thường dành cho má vẫn không bao giờ vơi cạn trong lòng Việt. Không chỉ dành tình yêu thương cho mẹ, mà Việt còn rất thương chị Chiến. Mẹ mất, chỉ có hai chị em nương tựa vào nhau, trong ngày khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, nghe thấy những bước chân bình bịch của chị, cậu thương chị đến lạ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm cùng chung sống dưới một mái nhà, tình cảm ấy được biểu lộ một cách rõ ràng đến vậy. Và một phản ứng vừa ngây ngô trẻ con mà cũng vô cùng đáng yêu của Việt ấy là khi ra chiến trường cậu giấu nhẹm chị mình, không bao giờ kể về chị với đồng đội, vì cậu sợ lỡ kể ra người ta sẽ lấy mất người chị thân yên của cậu, cậu giữ lấy chị làm của riêng. Hành động, suy nghĩ tuy trẻ con nhưng lại cho thấy tình yêu thương sâu sắc Việt dành cho chị.

Không chỉ vậy, Việt còn có lòng căm thù giặc sâu sắc và luôn nung nấu quyết tâm trả thù. Gia đình Việt đã có biết bao người ngã xuống dưới sự tàn sát ghê rợn của kẻ thù: cha, mẹ, họ hàng, … bởi vậy lòng căm thù giặc càng trở nên mạnh mẽ, mãnh liệt hơn. Ngay sau cái chết của má, ý nghĩ ấy thôi thúc câu mãnh liệt hơn bao giờ hết, Việt tranh giành quyết liệt với chị Chiến để lên đường ra chiến trường, dù cậu còn nhỏ, vẫn chưa đủ tuổi nhưng ý chí, lòng quyết tâm vẫn không hề bị lay chuyển. Khi khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm, suy nghĩ trong tâm trí hai chị em: “…khi nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về”. Lòng căm thù giặc chính là động lực mạnh mẽ nhất để Việt cũng như Chiến nêu cao quyết tâm đánh giặc, trả thù cho gia đình.

Ngoài mặt trận Việt là một người chiến sĩ hết sức gan góc, dũng cảm và vô cùng kiên cường. Mặc dù mới vào trận lần đầu tiên song với lòng dũng cảm, ý chí giết giặc cậu đã tiêu diệt được một xe bọc thép của kẻ thù và sáu tên giặc. Ngày cả khi bị thương thì tinh thần chiến đấu của Việt vẫn không hề giảm sút. Mặc dù bị lạc đồng đội, mắt không còn nhìn rõ, chín đầu ngón tay gần như bị tê liệt, nhưng Việt không hề nao núng sợ hãi, anh vẫn lắng nghe từng chuyển động để phán đoán hành động của kẻ thù và ngón tay duy nhất còn lại vẫn nắm chặt vào cò sung, sẵn sang chiến đấu. Việt luôn tâm niệm: “Bầu trời này có mày, mặt đất này có mày nhưng cánh rừng này có tao nếu mày giết tao thì tao sẽ giết mày”. Chỉ với một câu nói ấy thôi nhưng đã chủ thấy sự hiên ngang, chủ động của Việt.

Dù trên chiến trường hết sức gan dạ, dũng cảm, nhưng trong cuộc sống đời thường cậu vẫn mang những nét hết sức dễ thương, hồn nhiên, vô tư của một đứa trẻ. Khi còn ở nhà, Việt luôn tranh giành, hay giận dỗi với chị Chiến. Ngay cả đêm trước khi lên chiến trường cậu cũng không thèm để tâm đến những gì chị nói và còn ngủ quên. Không chỉ vậy, tính cách trẻ con của Việt còn được biểu lộ ngay cả khi ở chiến trường cậu mang theo một chiếc ná thun và không bao giờ kể về chị mình với đồng đội. Dù gan góc, dũng cảm là thế, nhưng cậu có một nỗi sợ hết sức trẻ con ấy là sợ ma.

Bên cạnh nhân vật Việt, cũng không thể không nhắc đến chị Chiến. Chị Chiến là người chan chứa tình cảm cho gia đình, đầu tiên là tình yêu thương với má. Chị giống má như tạc, có lẽ là do ngưỡng mộ má, tự tạc mình theo má. Đồng thời chị cũng rất yêu thương Việt, chị luôn nhường nhịn em, duy chỉ có việc ra chiến trường đầy nguy hiểm là chị tranh giành với việt.

Trong chị Chiến cũng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Dù là một người con gái bé nhỏ, nhưng chị sẵn sang xung phong đi bộ đội. Khi khiêng bàn thờ ba má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù ho ba má…”, “mối thù thằng Mĩ có thể rờ thấy được”. Đêm trước ngày ra chiến trường: dặn em và cũng là dặn chính mình phải quyết tâm trả thù giặc bằng xong với về. Tự hứa: “Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Bằng những lời nói thật giản dị nhưng chất chứa lòng căm thù giặc sâu sắc của chị. Trong cuộc sống hàng ngày chị là một người con gái đảm đang, tháo vát. Trước khi đi, chị thu xếp việc nhà chu toàn: viết thư cho chị Hai, cho xã mượn nhà làm trường học;…

Xây dựng hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả đã cho thấy lòng căm thù giặc, cùng ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của những người con trong các gia đình nông dân Nam Bộ. Đồng thời cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

Vẻ đẹp của hai nhân vật chính là bắt nguồn từ thế hệ trước. Gia đình Chiến có lòng dũng cảm và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bên cạnh đó mỗi thế hệ lại mang những nét đẹp riêng, chú Năm luôn có ý thức gánh vác việc gia đình, tạo cơ hội cho các thế hệ sau được ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chiến công trả thù. Má Tư Năng, chồng mất, can trường bất khuất, một mình nuôi con. Thế hệ sau có Việt và Chiến với lòng căm thù giặc sâu sắc, khúc sông sau chảy mạnh hơn, đi xa hơn, đã hòa vào biển lớn. Truyền thống gia đình đã cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một nét đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm được trần thuật từ ngôi thứ ba, người kể chuyện giấu mình, tạo nên tính trung thực, khách quan. Bên cạnh đó còn còn phải kể đến ngôn ngữ giản dị, đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Tác phẩm đã xây dựng hàng loạt chân dung anh hùng, mang trong mình lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ không còn là cá nhân anh hùng đơn lẻ mà là tập thể, gia đình anh hùng. Qua đó nhà văn cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

8. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 5

Nguyễn Thi là một trong các nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông viết nhiều, viết chân thực về mảnh đất và con người Nam Bộ để rồi nó trở thành không gian vô cùng đặc sắc trong văn thơ Nguyễn Thi. Trong đó, “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm mà ông đặt nhiều tâm huyết để nói về con người Nam Bộ với những vẻ đẹp phẩm chất, tính cách anh hùng.

Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” gợi ra sự nối tiếp của sự sống trong một mạch nguồn bất tận của thế hệ sau với thế hệ trước. Không chỉ nối tiếp một huyết thống mà con nối tiếp cả một truyền thống. Qua đó, Nguyễn Thi cũng đề cao vai trò của gia đình đối với mỗi con người. ở đó không chỉ là cái nôi nuôi dưỡng sự sống mà nó còn nơi khơi sức sống mãnh liệt về tình yêu Tổ Quốc, yêu gia đình. Ngoài ra, nhan đề còn mở các hình tượng trung tâm trong tác phẩm là Chú Năm, Việt, chị Chiến…

Chú Năm hiện lên là người thân lớn tuổi duy nhất còn lại trong gia đình, là chỗ dựa, cưu mang, chăm sóc thay ba má dạy dỗ chị em Việt. Chú là điểm tựa tình thần của chị em Việt – Chiến để hai chị em tiếp tục sống và chiến đấu. Ở Chú Năm hiện lên tất cả vẻ đẹp của một người nông dân mộc mạc, chất phác, mang trong mình vẻ đẹp riêng của người nông dân Nam Bộ. Tính cách bộc trực, thẳng thắn, mạnh mẽ qua cách dạy hai chị em Việt – Chiến “thù cha mẹ chưa trả mà bảo về là chú chặt đầu”. Chú là người ham sông ham bến và di nhiều nơi, viết nhiều. Tất cả hiện lên ở Chú Năm là con người của đất đai sông nước, kênh rạch, nồng nàn hơi thở Nam Bộ. Đặc biệt trong Chú Năm còn là tình yêu và lòng yêu nước căm thù giặc sâu sắc. Chú Năm cũng là người có ý thức chăm chỉ giữ gìn và bảo vệ truyền thống của gia đình.Chú rất chăm chỉ và tỉ mỉ ghi lại các sự kiện, sự việc của gia đình, không sốt một cái nào. Đặc biệt là cuốn sổ mà chú giữ được ví như cuốn biên niên sử và chú cũng hiện lên là gia phả sống của gia đình nông dân nam Bộ. Chú là hiện thân trực tiếp luôn luôn sống về truyền thống, hướng về Tổ quốc. Nếu ví gia đình chú như một dòng sông chú Năm được ví là khúc thượng nguồn.

Má Việt hiện lên là người phụ nữ gan góc, mạnh mẽ và có lòng yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời má chồng chất những đau thương gắn liền với mỹ ngụy. Tuy nhiên bằng bản lĩnh và nghị, người mẹ ấy nén đau thương nuôi các con để sống và duy trì sự sống. Đau thương ấy, người mẹ Nam Bộ nuốt và trong để lặng lẽ chịu đựng. má là hình ảnh điển hình cho người phụ nữ Nam Bộ những con người bất khuất, trung hậu, đảm đang và kiên cường, giàu đức hi sinh.

Dưới ngòi bút khắc họa nhân vật của Nguyễn Thi, chị Chiến hiện lên vớ sự thừa hưởng cả hình dáng và tính cách của má. Dáng người khẻ khoăn, chắc nịch gánh vác công việc của gia đình, tròn trách nhiệm của một người chị lớn trong gia đình. Chị Chiến còn thừa hưởng những tính cách của mẹ về sự mạnh mẽ, kiên cường, bản lĩnh. Là người tao tần, thu vén mọi việc trong gia đình và có lòng yêu nước, ý thức phát huy truyền thống dân tộc. Tuy nhiên ở cô gái 19 tuổi ấy vẫn giữ được nét vẻ ngây thơ, hồn nhiên và rất tinh tế, nhạy cảm. Qua ngôn ngữ đơn giản, rắn rỏi, Nguyễn Thi làm nổi bật vẻ đẹp người con Nam Bộ.

Với ngòi bút đặc tả cùng lối trần thuật ở ngôi thứ 3 Việt hiện lên là một cậu bé 18 tuổi vừa giữ được sự ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng là một cậu bé rất yêu thương chị gái của mình. Việt còn là một cậu bé giàu lòng yêu thương và sống rất tình nghĩa. Việt gan góc và dũng cảm. Và hơn ai hết, trong Việt cũng là tình yêu quê hương, đất nước, luôn sục sôi với dòng máu truyền thống của cách mạng.

Bằng ngòi bút sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ vừa tả thực, vừa lãng mạn nhà văn đã xây dựng một gai đình Nam Bộ có sự nối tiếp thế hệ. Chính sức mạnh sinh ra từ tình thương và nỗi đau đã giúp những con người trong gia đình đặc biệt thế hệ sau nhanh chóng trưởng thành sẵn sàng mang trên vai trách nhiệm của gia đình và sức mệnh thiêng liêng lịch sử. Việc xây dựng nhân vật có sự tiếp nối thế hệ là cách nhà văn ca ngợi sức mạnh tư tưởng, lí giải cội nguồn tạo nên chiến thắng.

9. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 6

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt.

Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.

Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.

Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại.

Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động.

Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.

10. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 7

Những đứa con trong gia đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi. Trong tác phẩm này, ông đã dựng lên một tập thể anh hùng, dũng cảm, và trong tập thể đó, nổi bật nhất chính là hình tượng hai nhật vật Việt và Chiến. Thế hệ tiếp bước truyền thống gia đình, làm rạng danh truyền thống của dòng họ.

Hai chị em Việt Chiến là hình tượng chính, có sự tương đồng về lứa tuổi lại cùng được hun đúc, nuôi dưỡng từ một gia đình. Nên giữa hai chị em có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết ở họ cùng mang lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức giết giặc để trả thù trong gia đình lúc nào cũng sục sôi.

Trong tác phẩm, tác giả xây dựng nhiều chi tiết để thể hiện lòng căm thù giặc của hai chị em Việt, Chiến song chi tiết cảm động nhất là khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chí Năm. Trong thời khắc đó Việt đã nhìn thấy rõ lòng mình: “Còn mối thù thằng Mĩ còn có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Lòng căm thù giặc vốn là một khái niệm trừu tượng, vô hình nay đã được Việt hữu hình hóa, có sức nặng cụ thể. Và khi mối thù đó đè năng trên vai cậu càng quyết tâm hơn nữa giết giặc, trả thù cho gia đình.

Việt và Chiến còn là những chiến sĩ xông xáo trên mặt trận, gan dạ dũng cảm lập được nhiều chiến công. Chị Chiến mặc dù là con gái song chị mang trong mình ý chí, quyết tâm rất cao. Ra đi đánh giặc, chị chỉ mang theo một tâm nguyện: “Ta là thân gái, ra đi chỉ một câu này: Nếu giặc còn thì ta mất”. Tinh thần quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc ngoại xâm, đồng thời còn cho thấy sự mạnh mẽ, kiên cường của người phụ nữ nông dân Nam Bộ.

Đây cũng là ý nguyện của toàn bộ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: “Ra đi chỉ một lời thề/ Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Còn Việt, anh tham gia chiến đấu khi chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng Việt đã chứng tỏ mình là một chiến sĩ vô cùng dũng cảm. Sự dũng cảm ấy được thể hiện trong lần anh ôm cả bầu pháo lao vào xe tăng địch; thể hiện trong lần Việt bị thương nằm giữa rừng, dù các giác quan gần như tê liệt, chỉ duy nhất một ngón tay còn cử động anh vẫn để sẵn vào cò súng, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Sự dũng cảm của Việt không chỉ thể hiện rõ trong chiến đấu mà còn thể hiện trong quan niệm về cái chết: “Chết là đau gấp mấy lần bị thương; chết là người thật bay lên nóc nhà còn người giả nằm dưới đất”, Qua niệm có phần ngây thơ, trẻ con, nhưng lại cho thấy cái chết đối với Việt không phải là điều khủng khiếp nhất với anh. Từ đó làm toát lên tình thần dũng cảm ở Việt. Sự gan dạ, dũng cảm ở hai chị em đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho những chiến sĩ giải phóng quân trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

Nhìn sâu vào tâm hồn hai chị em Việt Chiến, chúng ta còn thấy được những vẻ đẹp khác, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương gia đình. Chị Chiến mặc dù chỉ hơn Việt một tuổi nhưng lại rất đảm đang, tháo vát và hết sức yêu thương em. Chị luôn nhường nhịn Việt, chỉ có lần duy nhất không nhường đó là đêm ghi tên để lên đường tòng quân.

Chị giành lấy phần khó khăn, vất vả về phía mình để em được sống trong an toàn. Còn Việt lại là cậu bé còn nhiều nét tính cách trẻ con nên hay tranh giành với chị Chiến, nhưng thực tế lại rất giàu tình cảm và lòng yêu thương chị. Bước chân bình bịch của chị khi khiêng bàn thờ sang nhà chú Năm càng làm rõ hơn tình yêu thương ấy. Nằm trong rừng bị thương, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, Việt lại nhớ về những kí ức của hai chị em.

Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hình tượng này còn mang những điểm khác biệt do tính cách, lứa tuổi và đặc biệt là do vị trí trong gia đình quy đình. Những điểm riêng biệt này đã giúp tác giả điển hình hóa nhân vật, giúp cho mỗi nhân vật có tính cách và số phận riêng.

Chị Chiến mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bắp chân lúc nào cũng tròn lẳn, bước chân đi rất nhanh và mạnh, khiến Việt có thể cảm nhận rõ bước chân bình bịch khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đó là sức vóc đặc trưng của những người phụ nữ nông dân Nam Bộ, họ sinh ra để lo toan, thu vén cho gia đình.

Là chị cả trong gia đình, chị Chiến sớm tỏ ra là người con gái đảm đang, tháo vát, chị lo toan công việc chu toàn. Trước khi lên đường ra mặt trận chị đã sắp xếp tươm tất mọi việc: chuyển bàn thờ má, cho mượn nhà làm trường học, trả lại ruộng cho xã,… Chị luôn suy nghĩ, lo toan chu đáo mọi việc.

Bên cạnh những điểm chung, tác giả đã đem đến cho người đọc hình tượng nhân vật Việt những nét vẽ mới lạ, độc đáo. Trước hết, Việt là một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ có phần trẻ con của một chàng trai tuổi mới lớn. Khi còn nhỏ cậu hiếu động, rất hay tranh giành với chị. Lớn lên, tham gia chiến đấu, khoác lên mình bộ quân phục đĩnh đạc nhưng trong tâm hồn cậu vẫn vương lại những nét tính cách trẻ con.

Bị thương trong rừng, câu không sợ chết mà sợ con ma cụt đầu – nỗi ảm ảnh tuổi thơ, đã khiến Việt khóc một cách hồn nhiên. Không chỉ vậy, khi ra chiến trường cậu còn giấu nhẹm, không kể về chị cho những đồng đội của mình, vì sợ mất chị. Tất cả những biểu hiện hồn nhiên, vô tư đó đã đem đến một cái nhìn tươi sáng, rất đáng yêu về những anh giải phóng quân trẻ tuổi.

Cùng là sự gan dạ, dũng cảm nhưng ta nhận thấy sự gan dạ của Việt được hình thành trên cơ sở cá tính mạnh mẽ, bộc trực hơn là thiên về bản lĩnh, kinh nghiệm. Sự mạnh mẽ, dũng cảm ở Việt được thể hiện trong hành động đầy gan dạ, ôm cả bọc pháo lao vào xe tăng địch.

Đặc biệt với nhân vật này Nguyễn Thi đi sau vào khai thác những suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ông đã khéo léo hòa trộn, đan cài đôi khi là cả những suy nghĩ thoáng qua của Việt về tiếng chim, đôi khi lại là những cảm xúc vô cùng thiêng liêng về má, chú Năm, truyền thống gia đình và đó còn là lòng căm thù giặc sục sôi.

Những biến đổi linh hoạt đó đã cho thấy ẩn đằng sau lòng dũng cảm, kiên cường còn là một anh giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên, ngây thơ lại vừa can trường, bản lĩnh, mang trong mình lí tưởng cao đẹp.

Xây dựng chân dung hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả Nguyễn Thi đã làm nổi bật chân dung của những con người anh hùng trong thời đại mới. Trong họ trong chỉ đơn thuần là yêu căm chiến lạc, mà ở họ còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, khi mơ hồ, tinh tế, khi sắc nét, rõ ràng. Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công khi xây dựng chân dung nhân vật.

11. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 8

Lăn lộn với người dân Đồng Bằng Sông Cửu Long, vào sinh ra tử, Nguyễn Thi đã thấm đấm chất nam bộ từ con người tới tâm hồn. Cùng với bản chất sâu sắc của người dân đất bắc, ông đã đưa chúng vào những trang văn. Bởi vậy khi đọc những trang văn của ông nhiều người cho rằng:” Nguyễn Thi là cây bút có biệt tài phân tích tâm lí con người có khả năng thâm nhập sâu vào nội tâm nhân vật của mình” tạo nên những hình tượng gân guốc có cá tính mạnh mẽ và Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho biệt tài của đó của ông.

Truyện kể về người lính giải phóng tên Việt bị thương và thất lạc đồng đội trong một trận đánh khốc liệt với quân Mĩ. Sau mấy ngày anh được đồng đội cứu đưa về, nhận được thư chị Chiến rồi nhớ lại chị Chiến và nhớ lại những trận chiến khốc liệt làm anh bị thương với quân Mĩ. Lúc tỉnh, Việt bò lê đi tìm đồng đội, lúc mê, Việt mơ thấy cha bị giặc bắt chặt đầu mẹ bị đạn pháo giết hại, nhớ chuyện cùng với chị Chiến giành nhau đi bộ đội trước, nhớ chuyện hai chị em cùng nhau bàn bạc thu xếp việc ra đình trước lúc đi…Việt nhớ không sót chuyện gì về những đứa con trong gia đình cho tới khi anh Tánh và đồng đội tìm thấy và đưa Việt về.

Về nhệ thuật, ngôn ngữ toàn bộ truyện là ngôn ngữ của người Nam Bộ, kể cả những đoạn miêu tả cảnh và người của nhà văn:

“… Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu ta sợ mất chị mà cái miệng ống loa của Tánh không bịt lại được…’’-. Tả tâm trạng: “… Việt lắng nghe, đúng là những con ếch nhái bụng tròn vo, mắt thồi lồi, hay ngồi liếm mép kêu uôm uôm…”. Tả loài vật: “… Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Cha, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu dạn xung phong thôi”: độc thoại ngắn gọn theo phong cách Nam Bộ…

Toàn truyện, có nhân vật Tánh và một số đồng đội, nhưng trong đoạn trích để phân tích chi có mỗi nhân vật Việt xuất hiện. Qua trí nhớ của Việt, nhiều nhân vật khác trong gia đình xuất hiện, vẫn có nhừng đoạn văn ghi đối thoại giữa các nhân vật một cách gián dị, chân thật như đang sống hiện hữu giữa cuộc đời. Đây là những hồi ức đã ăn sâu vào từng tế bào, thớ thịt của Việt: Hãy đọc lại một đoạn hồi ức của Việt qua ngòi bút của nhà văn:

– “Mình đi đâu thì ba má đi theo đó chớ gì mà lo?

– Vậy chứ ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm em có ừ không?

– Ừ! mà hồi đó má dặn chi vậy hả?

– Má có biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường:

– Vậy mà nói nghe in như má vậy.”

Đoạn văn đối thoại vừa thông minh vừa ngây thơ, thật dễ thương để diễn tả tình cảm của nhân vật. Không những thế, Nguyễn Thi còn thành thạo trong sử dụng thành thạo văn độc thoại:

“… Việt còn đây! Việt sẽ tới phụ với các anh!…”

“… Vậy là ban ngày đã đến. Mùi nắng cỏ thể ngửi thấy được. Hai mắt Việt

Bị thương thiệt rồi, nó đang sưng lên cho nên ban ngày rồi mà Việt không thấy gì hết. Nếu giặc tới thì làm sao bắn?…”

“… Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cá khu rừng này chỉ có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày…”.

Truyện ngắn có nhiều đoạn văn độc thoại hay như những đoạn văn ngắn trên. Chúng rất phù hợp với những hồi ức trong những cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù như E. Hemingway đã sử dụng độc thoại trong hầu hết những tác phẩm nổi tiếng của ông.

Truyện phong phú chi tiết, sự việc xảy ra đan chéo nhau. Quá khứ gần đan chéo quá khứ xa, quá khứ xa đan chéo quá khứ gần (quá khứ gần: Việt bị thương, nằm ở đơn vị; quá khứ xa: Chuyện xảy ra trong gia đình, trong làng xóm Việt ; và hiện tại tại: Việt đang điều trị ở bệnh viện và nhận được thư chị Chiến Mỗi sự việc xảy ra đều có xung đột, và được giải quyết hợp lí, liền mạch truyện…

Kẻ thù xuất hiện trong trận đánh, có bom đạn, xác Mĩ. Chủ yếu nhân vật trong truyện là những nhân vật cùng tuyến chính diện. Và ai cũng mang truyền thống yêu thương, chống giặc ngoại xâm.

Người gần gũi với Việt lúc này là “anh Tánh”, tiểu đội trưởng luôn quan tâm đến Việt. Vừa đánh giặc vừa tìm cứu Việt ngoài chiến trường, vừa chăm sóc, nhắc nhở Việt viết thư cho chị. Thế nhưng chú Năm mới là người thân thiết.

Chú Năm: là người yêu quê hương tha thiết: “… chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó…”. Chú năm đi rộng, biết nhiều: “… Chẳng là trước kia chú vốn đi bè cũng ham sông ham bến, nên biết nhiều nơi”… “Những câu hò chú thuộc từ hồi đi chèo ghe mướn ở Sài Gòn, lục tỉnh”… Là người lớn duy nhất còn lại giữ riềng mối gia đình. Chú quý trọng gia đình lắm: “… Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta củng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm. ”. Riềng mối gia đình cụ thể là ở cuốn sổ tay chú ghi đủ mọi chuyện xảy ra trong gia đình, cho gia đình. Chú ghi đủ hết. Từ chuyện “… Thím năm bơi xuồng đi rọc lá chuối bị ca-nông Mỏ Cày bắn bể xuồng, chết còn rnặc cái quần mới…” đến chuyện “lính tổng Phong… bắn vào giữa bụng ông nội”. Từ chuyện bà nội bị lính quận Sơn bắt, đánh đến chuyện: “Thằng Hai, con chú Năm… bò và đặt trái, lấy cốt xong, bó năm cây súng vác về nhà”… Chú còn mượn câu hò đế gửi gắm lòng mình… “Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó…”.

Còn ba, má Việt thì sao? Bắt đầu từ cuộc đời con gái, “chiều chiều má đi làm mướn về, vì không tiền đi đò nên vẫn lấy nón làm phao mà lội qua sông. Ba hồi đó còn là trai, cầm tầm vông gác bến đò. Một buổi má xin giang xuồng, ba nhứt định không cho, má liền phóng xuống sông, lội. Xuồng ba cặp bến thì má cũng lội tới bờ. Hai bên giáp mặt. Ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hử một cái “cóc” rồi đi thẳng”. “… Chiều hôm đó má gánh cơm đi tặng bộ đội “tầm vông” thì lại gặp ba trong hàng ngũ đó”. Tình yêu nên chồng, nên vợ của ba má Việt như vậy đó. Nhưng hai người thương nhau vô cùng. Ba cũng đánh Tây, “ôm đệm đi ngủ ngoài bờ bị lính Tây bót Kinh Ngang bắt chặt đầu”. Tình thương yêu của má biểu hiện càng cao: “… tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài.. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cáp rổ…”. Đòi được đầu về rồi má mới khóc thương ba mà chẳng kể gì hết.

Má thương các con, thương ba nên luôn luôn so sánh việc làm của Việt là giống ba Nhờ có ba mà má dạn lên, một mình nuôi bốn đứa con nhỏ dại. Má cũng anh hùng – nhờ chiếc xuồng, má làm việc đầu tắt mặt tối để nuôi con, nhưng cũng chở người đi đấu tranh ở trên quận. Xuồng bị đập bể, má đi chân không. Lội sình tìm việc nuôi con mà cũng để nghe ngóng tình hình. Hình ảnh về cái chết của má cũng thật gan dạ: … Má vừa mới đi đấu tranh ở Mỏ Cày về, cà nông nó bắn đuổi theo. Một trái rơi bịch trên lộ, trước mặt má, không nổ, má đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về. Một trái khác đã văng miểng trúng má lúc má về tới đầu xóm. Má nằm xuống, trái cà nông lép trong rổ rau còn nóng hổi, Má chết…”. Hơi cường điệu trong miêu tả, nhưng hình ảnh má hi sinh thật anh hùng. Như ngày nào má dõng dạc buông câu trả lời nổi tiếng khi kẻ thù hỏi: “Vợ Tư Nông đây!”…

Mẹ Việt rất yêu thương chồng: “Lấy chồng rồi, má lại lặn lội thăm chồng. Lên rừng xuống biển má cũng đi, vai gánh chục dừa, một đầu thêm nải chuối, một đầu thêm vài rẽ thuốc”. Đó là hình ảnh của người vợ lặn lội thân cò đế lo lắng cho chồng. Và đồng thời, đấy cũng là người mẹ rất thương con, dồn hết tình thương cho con: “Vì mong cho con mau lớn mà má trông từ cách con làm tới miếng cơm con ăn trong miệng”.

Chị Chiến: Một người con hiếu thảo, người chị mẫu mực trong gia đình, và là người con gái mang truyền thống giặc xâm lược. Một người con hiếu thảo khi chị giúp mẹ làm công việc trong nhà để mẹ làm mướn nuôi mấy chị em, để mẹ có thì giờ cùng bà con đấu tranh. Sau khi hai chị em cùng đăng kí đi bộ đội, một mình Chiến lo suy nghĩ, thu xếp nơi đặt bàn thờ của cha, mẹ. Chuẩn bị bữa cơm cúng cha mẹ trước khi dời bàn thờ sang nhà chú Năm.

Một người em, người chị mẫu mực:

Viết thư cho chị Hai dù chị là con nuôi của ba, má… Luôn luôn nhường nhịn em: nhường em về công soi ếch nhái, nhường cả “vết đạn bắn thằng Mĩ trên sông Định Thủy” độ nào.

Chiến luôn luôn hỏi ý em một cách khéo léo về những công việc gia đình ‘ẩn giải quyết trước khi hai chị em cùng lên đường.

Chuyện căn nhà, bàn ghế… chuyện thằng út:

“… Chị em mình đi thì thằng Út sang chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học… Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học, nghen?…

“… Bàn thờ má gới đâu? Gởi sang chú Năm cho thằng út coi chừng hay là chi Hai về đem đi?”.

“… Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống… dùng cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên….”.

Chị Chiến giỏi và khéo như vậy nên đã được chú Năm khen:

“Khôn! Việc nhà có thu gọn được thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non…”.

Ở chiến trường, luôn viết thư liên lạc động viên em, nhưng trước hết Chiến là một người dân biết bổn phận. Điều này được thể hiện ở chỗ hai chị em giành nhau đi tòng quân. Chiến đã lí luận: “Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ với chú Năm, qua năm hãy đi”… “Hổi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau”…. “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Tinh thần chiến đấu của Chiến quả rất cao.

Nguyễn Văn Việt là một thanh niên nông thôn mới lớn, thật thà, chất phác yêu quê nhà, những người thân, gắn bó với đồng đội, can đảm giữa mặt trận. Trước hết Việt là người tha thiết yêu quê nhà. Ếch nhái kêu dậy lên – Việt lắng nghe, đúng là những con ếch nhái bụng tròn vo, mắt thồi lồi, hay ngồi liếm mép kêu uôm uôm. Ớ quê Việt, những đêm như đêm nay, đèn soi nhấp nhánh đầy đồng”. Từ tiếng ếch kêu trong hiện tại trước khi Việt bị thương, Việt nhớ nhà, quê hương với những chi tiết cụ thế “Cứ trời mà dứt hột’’, Việt đã cởi trần ra, hai chị em, hai cái đèn soi, lóp ngóp đi”.

Và lúc nào cũng yêu thương những người trong gia đình, lúc còn nhỏ, đã biết yêu thương gia đình. Thương Ba nên đi đâu cũng đòi đi cùng ba. Thương má nên làm theo lời dặn của má: “Việt à, coi chừng nhà nghe con!… Việt à, ra phụ má nghe con!”. Lúc chuẩn bị ra đi thì cùng chị chăm lo, thu vén công việc gia đình. “Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt. Chú là người thân gần nhất và lớn nhất còn lại của gia đình”… Khi bị thương, Việt nhớ chị Chiến, nhớ thuở còn nhỏ hai chị em đi soi ếch, nhớ tới chuyện cùng chị chạy lon lon theo má đi đòi đầu ba. Nhớ vụ cãi nhau trong việc tòng quân, nhớ tới đêm nằm nghe chị bàn chuyện thu xếp nhà cửa, nhớ tới ngày hai chị em đưa bàn thờ mẹ sang nhà chú Năm, Việt “thấy thương chị lạ”. Việt nhớ tới chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt; nhiều nhất là Việt nhớ tới mẹ. Trong hồi ức của Việt, hình của người mẹ luôn hiện ra. Việt nhớ tiếng chân “má đi lịch bịch vào nhà”. Việt còn nhớ cả mùi hôi của má, rồi có lúc Việt mơ ước được má xoa đầu như những ngày còn bé. Việt cũng nhớ đồng đội như in. “Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công…”.

Và cuối cùng Việt căm thù giặc và dũng cảm trong chiến đấu. Đây là những đoạn mô tả tầm lí mà Nguyễn Thi đã vận dụng nghệ thuật viết hồi ức, những đoạn văn độc thoại ngắn hay nhất. Nhân vật nào gần gũi với Việt cũng mang lòng căm thù giặc không chỉ nghĩ, nói mà cả ở hành động.

Hồi nhỏ, qua lời kể của má về Việt: “… Phải hồi đó tao không níu lại thì nó đã bắn mày rồi. Đầu ba ở dưới đất không lượm, cứ nhè cái đầu thằng vừa liệng đầu mà đá” gan lì, căm thù kẻ ác từ nhỏ. Lúc đi đánh giặc: Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”: Thù vì ba thì bị chặt đầu, má thi bị đạn ca nông bắn chết.

Bốn lần ngất đi, tỉnh lại đều có bóng dáng căm thù trong tâm tư, trong cử chỉ của người lính bị thương ấy: “… Đơn vị của Việt đâu? Các anh ở gần hay ở xa? Không tìm thấy Việt sao? Việt đi bánh xe ở tuốt đằng kia, xa lắm, thù pháo đã bổ vào thùng nó, chắc nó cháy rồi, bây giờ Việt đi tìm các anh đây!”

Có căm thù mới chiến đấu can đảm đến như vậy. Có căm thù mới “… bò gấp. qua những cái gì nữa Việt không cần biết, quên cả khắp người đang rỉ máu quên cả trận địa sắt thép ngổn ngang mà thương tích”… Quyết, vượt qua đau đớn của thế xác đế tìm cho ra đồng đội. “… Việt chộp súng, lên đạn. Cả mười ngón tay không ngón nào còn lên nổi. Việt ghé răng giựt mạnh cơ bấm. Một viên đạn lên nòng…” “…khi nghe thấy tiếng động, Việt cứ đinh ninh là giặc, đang chuẩn bị bắn nó và chờ phút quyết liệt nhất của đời mình coi cái chết nó ra sao…” Sẵn sàng chấp nhận hi sinh cho tới hơi thở cuối cùng.

“Cái sâu sắc của Nam Cao, cái chấm biếm của Nguyễn Công Hoan, cái mới lạ của Trần Đăng, cái tinh tế của Bùi Hiển… ít nhiều đều có dấu ân trong Nguyễn Thi, Nguyễn Thi cho tôi thấy bao nhiêu là tình sâu nghĩa nặng trong một chữ gia đình, nó là nỗi niềm sâu thẳm của người chiến sĩ ra trận lần đầu…” (Phong Lê)

Nguyễn Thi có một tâm hồn tha thiết, yêu thương và căm thù mãnh liệt. Điều đó khiến cho những trang viết thật giàu có về hình tượng và mỗi hình tượng đều rung động chúng ta sâu sắc… yêu thương và căm thù, đó là hai nguồn sức mạnh tạo tính cách đặc biệt ngoan cường cùa nhân vật Nguyễn Thi. Sự hiểu biết cặn kẽ tâm lí con người, khả năng thâm nhập vào dòng tâm sự của nhân vật để quan sát, phát hiện và phân tích một cách tỉ mỉ, đồng thời thông qua đó mà dẫn câu chuyện một cách linh hoạt. Những đứa con trong gia đình có thể coi là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyền Thi về phương diện này.

12. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 9

Một người nghệ sĩ có tài là người nghệ sĩ biết tìm từ những chất liệu đã nhiều người nhào nặn, nhào nặn một điều mới mẻ, nhào nặn một đứa con tinh thần đích thực của mình. Nguyễn Thi chính là một người nghệ sĩ như vậy. Trong những năm kháng chiến, văn học cách mạng là nguồn đề tài để các tác giả khai thác triệt để. Mà khai thác liên tục chắc chắn sẽ cạn kiệt. Đối với Nguyễn Thi ông đã tìm ra cách khai thác trong đề tài mà nhiều người đã lật mở, đào xới.

Không giống như nhiều nhà văn khác, khai thác đề tài chiến tranh ở những góc độ khác nhau, như vẻ đẹp thân phận con người, chiến tranh như một cơ hội để tâm hồn con người được phát lộ, ông nhìn chiến tranh ở một góc độ rất khác – góc độ gia đình. Với cách khai thác này, Nguyễn Thi đã đem đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về chiến tranh, về số phận và phẩm chất của con người.

Các nhân vật trong truyện được xây dựng có tên tuổi và cá tính riêng. Nhưng cá tính của mỗi người luôn có mạch nguồn khởi từ chính gia đình họ, nơi mà họ được sinh ra, nơi mà họ thuộc về. Tính cách đó đã có trong tất cả các thành viên và ở thế hệ sau tính cách đó lại không ngừng được bổ sung, thêm những nét tính cách mới. Ví như nhân vật Việt, sinh ra trong một gia đình giàu tinh thần chiến đấu.

Ngay từ khi còn chưa đủ tuổi, Việt đã tranh với chị lên đường nhập ngũ. Cậu sẵn sàng nói dối tuổi của mình: “em mười tám, chị Chiến em mười chín”. Rồi cô chị vừa thương em,đã nói: “Đến Tết này nó mới được mười tám anh à! Em nói để em đi trước , nó ở nhà, thủng thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi, mà nó không chịu”.

Như vậy, nguồn mạch, dòng máu yêu nước chảy trong huyết quản của hai chị em Việt Chiến chính là đã được hình thành ở các thế hệ trước đó. Và để giải quyết vấn đề này, chú của Việt và Chiến đã lên tiếng: “Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa là cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng.

Vậy xin cứ ghi tên cho cả hai.Việc lớn tính theo việc lớn, còn việc nhỏ thỏn mỏn, tôi thu xếp khác xong”. Như vậy có thể thấy, nét tính cách này đã được thể hiện một cách triệt để và toàn bộ trong gia đình Việt Chiến. Nét tính cách đó được hun đúc lên từ lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của gia đình.

Thứ hai, chính là văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Văn hóa cộng đồng được thể hiện rõ trong đêm Việt bị thương, nằm giữa rừng, điều cậu lo lắng, sợ hãi không phải là vết thương, không phải là nỗi đau đớn về thể xác mà chính là sự cô độc. Không được sống cùng mọi người, không được cùng chiến đấu, cậu một mình cô độc không biết cái chết sẽ ập đến lúc nào. Điều đó làm cậu thực sự sợ hãi.

Bởi vậy, trong cơn mê man, Việt nhớ về những ngày ấu thơ, khi sống cùng chị, sống cùng chú Hai, rồi lại nhớ đến những người đồng đội của mình. Hình thức tái hiện quá khứ đó khiến cho Việt cảm thấy bớt cô độc, khiến cậu có thể kết nối được với mọi người. Tâm lí sợ cô đơn đó có thể lí giải bởi một vài nguyên nhân như: gia đình vốn là nơi mỗi người được sinh ra, bản thân chúng ta đều có một sợi dây vô hình nối kết mọi thành viên trong gia đình với nhau. Đối với Việt gia đình còn là nơi để cậu có thêm động lực sống, chiến đấu để trả thù cho cha mẹ, cho những người thân thương của cậu.

Như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “trong gia đình Việt, cái chất “anh hùng mộc mạc” được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cha mẹ của Việt và Chiến là những con người hết sức dũng cảm, và dòng máu nhiệt huyết đó vẫn không ngừng chảy trong lồng ngực cháy bỏng của hai chị em Việt và Chiến. Những việc làm của thế hệ đi trước luôn có ảnh hưởng rất lớn đến hành động, việc làm của hai chị em hiện tại.

Để nhắc nhở về truyền thống gia đình, Việt thường xuyên mơ thấy mẹ vào những bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời cậu: khi mới vào nhập ngũ, khi bị thương, hình ảnh người mẹ hồn hậu lại hiện về trong tâm trí cậu, nó như thứ năng lượng tinh thần đặc biệt tiếp thêm sức mạnh cho cậu.

Đồng thời những hình ảnh của mẹ thường xuất hiện vào những thời điểm quan trọng cũng cho thấy niềm tin tưởng, đức tin của những người còn sống với những người đã khuất, đức tin về sự bảo vệ, che chở. Ta có thể thấy, họ – hai chị em Việt Chiến đến với cuộc chiến đầy dai dẳng và quyết liệt này không chỉ bằng lòng căm thù giặc, lòng yêu nước mà còn là cả một chiều sâu tâm linh gia đình sâu thẳm.

Để làm nổi bật lên cách khai thác chủ đề truyện, Nguyễn Thi đã lựa chọn một cách kể chuyện vô cùng mộc mạc, giản dị, tự nhiên. Điểm nhìn trần thuật vô cùng linh hoạt, chủ yếu dựa trên quan điểm của nhân vật. Dòng sự kiện đi theo những cảm xúc nhân vật, từ đó tác giả có thể dễ dàng quan sát những tình cảm, cảm xúc của nhân vật.

Thời gian trần thuật liên tục bị xáo trộn, để ta vừa thấy một Việt vẫn còn những nét ngây thơ, trẻ con, nhưng lại có cá tính, đã có sự khôn lớn, trưởng thành. Ngoài ra giọng điệu trần thuật gân guốc, rắn ròi cũng là một điểm nhấn trong tác phẩm. Đây là chất giọng điển hình của người dân Nam Bộ, những con người bộc trực, thẳng thắn, mạnh mẽ mà cũng giàu long yêu thương.

Bằng một cách khai thác hiện thực rất khác, Nguyễn Thi đã đem đến cho người đọc một hiện thực khác, những con người khác trong hoàn cảnh chiến tranh. ở họ vẫn ngời sáng tinh thần anh hùng, dũng cảm nhưng nó không đơn độc, mà xuất phát từ truyền thống gia đình, xuất phát từ huyết mạch đang chảy trong họ. Cách khai thác đó, kết hợp với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc đã tạo nên thành công cho tác phẩm.

13. Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình mẫu 10

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với cuộc sống và chiến đấu anh dũng của quân và dân miền Nam. Các sáng tác văn học của Nguyễn Thi tập trung phản ánh hiện thực đấu tranh dữ dội, quyết liệt của người nông dân Nam Bộ chống để quốc Mĩ xâm lược và tay sai, giành độc lập tự do và thống nhất đất nước.

Những đứa con trong gia đình được Nguyễn Thi viết trong những ngày chiến đấu ác liệt vào tháng hai năm 1966. Truyện ra đời trong bối cảnh lịch sử đó nên tác phẩm của Nguyễn Thi là một bức tranh sử thi đồ sộ, hoành tráng về con người Nam Bộ trong chiến đấu nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ nói chung.

Tính chất sử thi không phải là các khái niệm thể loại hay chỉ quy mô của tác phẩm, mà là một tác phẩm phản ánh cuộc sống của con người thời đại đã được phủ lên một màu sắc sử thi. Tính chất sử thi là một đặc điểm của dóng văn học sáng tác trên nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân xuất hiện vào thời kì đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Tính chất sử thi thể hiện ở xung đột trong tác phẩm văn học là xung đột giữa toàn dân với kẻ thù xâm lược. Chủ đề cơ bản có tính sử thi là tình cảm yêu thương, trân trọng, ngợi ca dân tộc nhân dân, tổ quốc truyền thống anh hùng trong quá trình đấu tranh giành độc lập, tự do. Lập trường sử thi là nhà văn vì lợi ích của dân tộc, cộng đồng. Nhân vật có tính sử thi là nhân vật anh hùng đại diện cho phẩm chất ý chí và sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là các hình tượng hãnh tụ, hình tượng chiến binh, hình tượng người mẹ.

Giọng điệu có tính sử thi cơ bản là giọng ngợi ca, tụng ca; giọng khẳng định và cổ vũ nhân dân chiến đấu. Tình cảm có tính sử thi chủ yếu là tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu bộ đội… Do các đặc điểm này mà các khía cạnh đời sống khác như đời sống cá nhân, sinh hoạt đời thường, các hiện tượng tiêu cực… đều được nhìn nhận theo xu hướng sử thi. Tác phẩm không phản ánh những vấn đề số phận cá nhân mà phản ánh số phận, phẩm chất của cả cộng đồng trong đời sống hiện tại.

Sử thi ở đây không phải là vấn đề thể loại mà là khuynh hướng sử thi Những đứa con trong gia đình mang khuynh hướng sử thi. Vấn đề phản ánh trong tác phẩm tập trung vào một gia đình có truyền thống cách mạng tiêu biểu cho nhân dân Nam Bộ và cả nước trong kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm có ý nghĩa rộng lớn đó, trước hết là do các thành viên trong gia đình mà nhà văn phản ánh có ý nghĩa điển hình xã hội và nghệ thuật sinh động.

Ý nghĩa khái quát, bao trùm, sức khái quát hóa nghệ thuật lớn lao bao giờ cũng vượt lên khỏi phạm vi đề tài ở những tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Gia đình của Chiến và Việt là một gia đình điển hình của người dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mĩ. Câu nói của chủ Năm “chuyện của gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó” đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất của chủ đề truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Qua thiên truyện ngắn này, Nguyễn Thi đã khám phá, phân tích và lí giải sức mạnh, chiến công của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Những đứa con trong gia đình có chung huyết thống và truyền thống nên có những nét giống nhau từ hình dáng, khuôn mặt, tính cách và tâm hồn. Chị Chiến giống má ở hình dáng đến tính cách gan góc, đảm đang tháo vát. Ngay cả việc sắp xếp nhà cửa, ruộng vườn của Chiến đêm trước ngày đi tòng quân cũng không khác gì má nếu má còn sống, khiến Việt thấy “in như má vậy”.

Chiến và Việt đều có “hai bộ mặt bầu bầu cùng một khuôn có hai cái chót mũi hơi hớt lên”. Họ đều là những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước căm thù giặc sâu sắc, thủy chung son sắt với cách mạng, quyết tâm đánh giặc tới cùng, dẫu “còn cái lai quần cũng đánh”. Đó là các “chất Út Tịch” trong họ.

Họ yêu thương đùm bọc nhau, ai cũng tự hào về truyền thống của gia đình và viết tiếp truyền thống đó. Trong truyện ngắn liên tục chảy từ thế hệ cha anh đến thế hệ của những người chiến sĩ trẻ anh dũng thời kì chống Mĩ cứu nước. trong quan niện của Nguyễn Thi, mỗi người con, mỗi đời người trong một gia đình phải là khúc sông trong một dòng sông truyền thống. Tuy nhiên vì “mỗi người một khúc” nên ai cũng có nét tính cách riêng, không ai giống ai.

Mỗi nhân vật đều có ý nghĩa điển hình cho phẩm chất anh hùng và ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ gia đình, quê hương, đất nước của nhân dân miền Nam. Đầu tiên phải kể đến nhân vật chú Năm. Trong dòng sông truyền thống của gia đình chú Năm là khúc thượng nguồn. Đây là một hình tượng đẹp. có ý nghĩa tượng trưng về truyền thống gia đình. Chú là một người đàn ông Nam Bộ ham sống, ham bến, sống thực thà bộc trực và vui tính, tính cách cũng rất mạnh mẽ, phóng khoáng quyết đoán.

Chú rất vui mừng khi cả hai đứa cháu đều muốn đi bộ đội. Chú bước lên xin ghi tên cho cả hai chị em Chiến và Việt và nói: “Tôi xin một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong?”.

Không hề tính toán đến cá nhân, chú luôn dạy dỗ, động viên, nhắc nhở các cháu: phải giết giặc để dành độc lập. Chú hiểu rằng vận mệnh của đất nước của dân tộc không thể tách rời hạnh phúc cảu mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Chú lập cuốn sổ gia đình, chờ cho hai cháu khôn lớn, trao cuốn sổ thiêng liêng này ở thời điểm hai đứa cháu. Chú hứa: “Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày”.

Cuốn sổ gia đình và người chú như một khích lệ thi đua lập công giết giặc của những đứa cháu. Chú bảo: “Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước” rồi “chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt”,. Chú biết các cháu ra trận là ranh giới giữa sự sống và cái chết thật mong manh. Gia đình của chú đã mất đi những người yêu thương nhất và có thể chú cũng mất đi những đứa cháu mà chú coi như là con đẻ của mình.

Là người lao động chân chất nhưng tâm hồn chú bay bổng, dạt dào. Chú hay cất giọng hò để gửi gấm tâm tình, ước mơ để nhắn nhủ các cháu. Chú năm là biểu tượng cho truyền thống gia đình, là lời nhắn nhủ của cha chú cho các cháu về cuộc đấu tranh giành độc lập và hạnh phúc của gia đình.

Tiếp đến là Chiến – chị gái của Việt – cô cháu gái gan gộc của chú Năm. Chiến là cô gái có những nét ngoại hình và tính cách giống hệt mẹ. Người mẹ có thể ngã xuống vì bom đạn kẻ thù nhưng má sẽ tái sinh trong máu thịt và sống lại trong cuộc đời của những đứa con. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét thừa kế người mẹ ở nhân vật Chiến.

Chiến cũng có một vóc dáng chắc nịch đủ sức để vượt qua gian khổ như má. Ba má đều mất sớm, hơn em trai có một tuổi nhưng Chiến đã tỏ sự già dặn, khôn ngoan, biết lo toan quán xuyến cho gia đình thật hợp lý, chu đáo. Nhà chỉ còn ba chị em phải trông nom, bảo ban nhau. Chiến tỏ rõ vai trò của một người chị cả đảm đang.

Ngày Chiến và Việt ghi tên tòng quân, chỉ còn thằng Út em mới mười tuổi vì thế nhà cửa, ruộng vườn phải thu xếp cho hợp lý. Những xếp đặt của Chiến cho thấy cô thực sự là một người lớn. chín chắn, biết suy nghĩ. Cái giờ phút thiêng liêng giữa đi và ở, giữa cuộc sống ở nhà và nơi quân ngũ, giữa quen và lạ khiến Chiến thao thức không ngủ được.

Suy nghĩ và hành động của Chiến bộ lộ nét đẹp cảu con người vì cộng đồng. Chiến bàn với Việt để nhà cho “xã mở trường dạy học”, “giường quán cũng cho xã mượn làm bàn ghế học”. Ruộng đất do cách mạng cấp trao lại chi bộ cho bà con cô bác khác làm. Chuyện công và chuyện tư đều được Chiến tính toán thấu đáo. Các dụng cụ gia đình như chén, cuốc, vá, đèn, soi, nơm, gửi chú Năm để chị Hai muốn gì thì lấy, hai công mía nhờ chú Năm đốn để dành làm giỗ má.

Hai chị em quyết định khiêng bàn thờ gửi chú Năm để yên tâm đi chiến đấu. Cuộc sống thiếu mẹ đã tôi luyện Chiến già dặn, chắc chắn, khôn trước tuổi. Biết cậu em trai của mình còn vô tâm, vô tư lắm, nhưng Chiến vẫn bàn bạc với em một cách kĩ lưỡng, nghiêm trang. Má anh hùng đẻ ra con anh hùng. Là nữ nhi nhưng khí phách của Chiến không khác trang nam nhi thời loạn. Chiến biết tội ác của kẻ thù không hề phân biệt nam nữ, già trẻ… Vì thế đã làm người Việt Nam phải góp công, góp sức cho kháng chiến.

Chiến không chịu nhường em đi bộ đội, không chịu thua em về khí phách. Những câu nói của Chiến trong đêm trước ngày đi xa là lời thề như dao chém đá: “Chú Năm nói mày với tao đi kì này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu”; “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.

Nhân vật Chiến là mẫu nhân vật tiêu biểu cho thời kì kháng chiến chống Mĩ. Đó là những Võ Thị Sáu, nguyễn Thị Minh Khai,… những nữ anh hùng con cháu của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Tính lịch sử của mẫu hình nhân vật toát lên vẻ đẹp tinh thần cũng như những hi sinh cao cả.

Con sóng vươn xa nhất, ca nhất trong dòng sông truyền thống gia đình là Việt. Việt mới mười tám tuổi, bắn chim, câu cá, bắt ếch… Việt rất thích. Bao giờ Việt cũng giành phần hơn chị. Gia đình mà truyền thống yêu nước và cách mạng như một sợi dây xâu chuỗi thế hệ nọ với thế hệ kia đã sinh thành nuôi dưỡng Việt. Những hình ảnh về người thân bị kẻ thù giết hại hằn sâu trong tâm trí Việt hun đúc nên lòng căm thù ngùn ngụt. tinh thần quả cảm đã hình thành trong Việt từ rất sớm.

Trong trận đánh đầu đời, mặc dù bị thương rất nặng, nhưng sự chịu đựng ở cậu chiến sĩ trẻ này rất khâm phục. Khắp người Việt không có chỗ nào không thương tích. Việt “cảm thấy tê dại tay chân. Khắp người, nước hay máu không biết, chỗ ướt sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ khô cứng […].

Trời tối kì lạ, Việt cho mũi lê đi trước, rối tới hai cái tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Sau đó Việt bò gấp qua những cái gì nữa không cần biết. Cậu cũng “quên khắp cả người đang rỉ máu”. Trong mơ và thực tình cảm về người thân, về đồng đội là nguồn lực sức mạnh tinh thần to lớn cho Việt.

Trong hoàn cảnh đó người chiến sĩ giải phóng quân vẫn bình tĩnh, chủ động không hề run sợ. Hiện tại và cảnh ngộ riêng, thật khủng khiếp dễ đẩy con người vào trạng thái hoảng hốt, lo âu. Nhưng tâm trí vẫn đưa Việt trở về với những kỉ niệm đẹp của những ngày đã qua. Biết căm thù dữ dội và Việt cũng yêu thương tha thiết những người thân, những người đồng đội đồng chí.

Tình yêu quê hương đất nước không phải cái gì lớn lao mà nó bắt nguồn từ tình thương với những người xung quanh ta. Mẫu số chung của những con người trong gia đình Việt là truyền thống gia đình, là lòng căm thù quân xâm lược. Yêu thương và căm thù đó là hai nguồn sức mạnh tạo nên tính cách đặc biệt ngoan cường ở nhân vật Nguyễn Thi.

Ngòi bút của nhà văn đậm chất dữ dội, thực tế khốc liệt và bão táp cách mạng đã tạo cho họ, những nhân vật sử thi của thời đại ngày nay. Họ không phải là những anh hùng do thời đại sản sinh mà đó là những anh hùng, từ sự tiếp nối và phát huy truyền thống, nếp nhà, một di sản thiêng liêng mà bao thế hệ trước đã bàn giao lại cho lớp con cháu.

Cảm hứng về con người trong tác phẩm của Nguyễn Thi là cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca những con người Nam Bộ anh hùng. Đây là một đặc trưng thi pháp truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn của Nguyễn Thi nói riêng.

Những đứa con trong gia đình không chỉ phản ánh chân thực đời sống mà còn khắc họa được những tấm gương oanh liệt mãi mãi sáng ngời mà nó mang đậm khuynh hướng sử thi. Ý kiến nhận xét trên là hoàn toàn xác đáng. Nó cũng là nhận xét chính xác khái quát chung cho toàn bộ sáng tác của Nguyễn Thi và văn học Việt Nam thời chống Mĩ.

Bài tiếp theo:

  • Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 1: Phân tích ý tưởng của Nguyễn Thi được thể hiện qua lời nói của nhân vật chú Năm: Chuyện gia đình ta… biển mà biển
  • Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?
  • Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 3: Phân tích một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh chị yêu thích

Tài liệu cùng tác phẩm:

  • Phân tích điểm giống và khác nhau giữa hai chị em Việt – Chiến trong truyện Những đứa con trong gia đình
  • Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”
  • Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Toán lớp 12, Tiếng Anh lớp 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.