Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc là bộ tài liệu hay dành cho các em học sinh lớp 12 tham khảo, tài liệu sẽ giúp các em học sinh hiểu sâu hơn về tác phẩm. Mời các bạn học sinh và thầy cô cùng tham khảo.
I. Tìm hiểu chung
Tác giả
Phạm Văn Đồng (1906-2000).
– Quê: Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi.
– PVĐ là nhà cách mạng lớn của nước ta trong thế kỉ XX, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao. Ông có nhiều cống hiến to lớn trong việc xây dựng và quản lí nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng là nhà giáo dục tâm huyết, nhà lí luận văn hóa văn nghệ lớn PVĐ để lại những tác phẩm lớn, quan trọng, nhiều định hướng, đường lối quan trọng về phát triển nền văn học nghệ thuật mới.
– Tác phẩm tiêu biểu:
- “Tổ quốc ta, nhân dân ta và người nghệ sĩ”. Trong tác phẩm này có bài viết về: Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh.
- Các bài: Hiểu biết, khám phá và sáng tạo để phục vụ tổ quốc và chủ nghĩa xã hội(1968), Tiếng Việt một công cụ cực kì lợi hại trong công cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa( 1979)…
2. Văn bản
a. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
– Bài viết đăng trên tạp chí văn học số 7-1963, nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ mù yêu nước sâu sắc, người đã dựng nên bức tượng đài bi tráng về người nghĩa dân vùng lên đánh Pháp cứu nước trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( 3/7/1888).
Tác phẩm được đánh giá là: áng văn tiêu biểu trong văn xuôi nghị luận nửa cuối thế kỉ XX ở nước ta, được chọn in trong tuyển tập Tiểu luận – Phê bình “Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám” (NXB văn học, Hà Nội 1993).
– Năm 1963, tình hình chiến tranh ở miền Nam có nhiều biến động lớn: Mỹ leo thang khủng bố phong trào cách mạng, Phong trào Đồng Khởi Bến Tre (nơi Nguyễn Đình Chiểu trút hơi thở cuối cùng) diễn ra sôi trào, ác liệt :
Quê ta sông dậy tiếng chèo ghe,
Ghe đưa trăm xác đi đòi mạng,
Rầm rập ngày đêm lên Bến Tre.
Người chết đi cùng người sống đây
Tử sinh một dạ trả thù này,
Võ trang mấy trận vang Bình Đại,
Cờ phất bừng tươi đất Mỏ Cày.
(Lá thư Bến Tre – Tố Hữu)
– Trong giới nghiên cứu, một số người còn đánh giá thấp giá trị văn chương Nguyễn Đình Chiểu hoặc hiểu chưa đúng vai trò của văn chương Nguyễn Đình Chiểu với lịch sử văn học nước nhà. Nhiều nhà nghiên cứu quan niệm văn chương cần phải gọt giũa, trau truốt, hoa mĩ. Trong khi tiêu chí ấy lại không thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Đình Chiểu vì ông là nhà thơ mù, điều kiện chỉnh sửa gọt giũa ngôn từ rất hạn chế.
– Tác phẩm nhằm mục đích: tưởng nhớ Nguyễn Đình Chiểu, định hướng điều chỉnh cách nhìn nhận về giá trị, vị trí thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Khơi dậy tinh thần yêu nước, đấu tranh chống Mĩ cứu nước.
b. Luận đề tác phẩm
– Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
c. Bố cục: 3 phần
Phần mở bài: Từ đầu đến “một trăm năm”.
=> Nêu vấn đề: Cách nhìn mới mẻ, khoa học về Nguyễn Đình Chiểu.
Phần thân bài: Tiếp đến “ còn vì văn hay của “ Lục Vân Tiên”
=> Trình bày những quan điểm mới mẻ về văn thơ Nguyễn Đình Chiểu:
- Luận điểm 1: Con người và quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu.
- Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.
- Luận điểm 3: Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Phần kết bài: Phần còn lại. => Nêu cách đánh giá đúng đắn con người và sự nghiệp thơ văn của NĐC. Qua đó thể hiện tình cảm đối với NĐC
* Nhận xét về kết cấu:
- Thông thường, trong bài văn nghị luận về một tác giả văn học nào đó, người ta thường phân tích các tác phẩm chính của tác giả, sau mới đánh giá về con người, vai trò của nhà văn. Nhưng ở bài viết này, tác giả Phạm Văn Đồng làm ngược lại, trình bày con người – quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu trước, sau đó mới trình bày về các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu.
- Bài viết cũng không trình bày các luận điểm theo trật tự thời gian (tác phẩm sáng tác trước thì trình bày trước). Ở đây, tác phẩm Lục Vân Tiên được sáng tác trước thì lại được PV Đ đưa vào cuối bài viết.
=> Với trật tự này, Phạm Văn Đồng muốn nhấn mạnh Nguyến Đình Chiểu là con người đặc biệt, để hiểu thơ văn ông trước hết phải hiểu con người ông, văn thơ ông gắn liền với thực tế, vận mệnh dân tộc.
II. Đọc – Hiểu văn bản
1. Phần mở đầu (Nêu vấn đề): Cách nhìn khoa học mới mẻ về Nguyễn Đình Chiểu
- Nguyến Đình Chiểu như “ Ngôi sao” – tinh tú, kết tinh tinh hoa vẻ đẹp của trời đất, vũ trụ.
- “Ngôi sao N Đ C có ánh sáng khác thường” => ánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó phát hiện ra.
- “Cần phải chăm chú nhìn mới thấy” => cách nói ẩn dụ, nghĩa là cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, nghiêm túc mới khám phá được vẻ đẹp văn thơ Nguyễn Đình Chiểu.
+ Nêu phản đề, lí do chưa đánh giá đúng giá trị văn thơ Nguyến Đình Chiểu:
+ Một là “ chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch về nội dung và văn …”.
+ Hai là “ còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu”.
Nhận xét đoạn mở đầu:
- Đoạn văn ngắn gọn, nêu vấn đề một cách dễ hiểu, hấp dẫn, thuyết phục, mang tính gợi mở, khái quát được những nội dung sẽ diễn giải ở phần sau (đánh giá Lục Vân Tiên, đánh giá thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu).
- Đoạn văn đã nêu được Nội dung vấn đề: Nguyễn Đình Chiểu là một nhân cách trong sáng, một nhà thơ yêu nước, tác gia văn học cần được nghiên cứu tìm hiểu và đề cao hơn nữa.
- Cách nhìn nhận về Nguyễn Đình Chiểu đúng đắn, sâu sắc, khoa học, mới mẻ.
Cách nhìn này vừa bộc lộ niềm ngưỡng mộ tài năng, tâm huyết của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu, vừa mang tính định hướng cho việc nghiên cứu tiếp cận thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
2. Cách triển khai vấn đề:
a. Luận điểm 1: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước.
– Luận cứ 1 quê hương, thời cuộc và mất mát riêng và tư tưởng.
- Nhà nho sống trong cảnh nước nhà lâm nguy, khắp nơi nhân dân đấu tranh đánh giặc cứu nước.
- Nhà thơ mù.
- Dùng văn thơ ghi lại tâm huyết với dân tộc, ghi lại thời kì lịch sử khổ nhục – vĩ đại, làm vũ khí chiến đấu.
=> Vẻ đẹp tấm gương trong sáng: tinh thần yêu nước căm thù giặc, nghị lực vượt khó để vươn lên phi thường.
– Luận cứ 2: Quan điểm thơ văn.
- Nhà văn trước hết phải có nhân cách: Cảnh riêng và cảnh đất nước càng đen tối thì khí tiết càng phải cao cả, rạng rỡ: Sự đời thà khuất đôi tròng thịt – Lòng đạo xin tròn một tấm gương” và “ Kiễn nghĩa bất vi vô dõng dã” (Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là kẻ anh hùng ) => Nguyễn Đình Chiểu coi trọng nhân cách và trách nhiệm của nhà văn với thời cuộc.
- Trong thơ văn phải ngụ khen chê rõ ràng: Học theo ngòi bút chí công – Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu”
- Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và “ Thấy nay cũng nhóm văn chương – Voc dê da cọp khôn lường thực hư !”
=> Quan điểm rất tích cực, tiến bộ, sâu sắc, gắn nhà văn và văn chương với hiện thực cuộc sống, với vận mệnh dân tộc, coi trọng chức năng giáo huấn, phê phán, cảnh tỉnh của văn chương.
b. Luận điểm 2 : Nội dung thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
– Luận cứ 1: Phạm Văn Đồng khẳng định thơ văn Nguyễn Đình Chiểu tái dựng sống động không khí kháng Pháp oanh liệt, bền bỉ của nhân dân Nam Bộ:
- Quân triều đình đánh Pháp thua, đầu hàng, cắt đất cho giặc.
- Các tầng lớp nhân dân (nông dân, sĩ phu) vùng dậy đánh giặc.
- Sự lan rộng của cuộc chiến tranh nhân dân.
Luận cứ 2: Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng cứu nước; khóc than tiếc thương những liệt sĩ tận trung, trọn nghĩa với dân với nước: Trương Định, Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, …
– Luận cứ 3: Đánh giá tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
+ “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
“Muôn kiếp nguyện được trả thù kia”
+ Liên tưởng, so sánh với áng văn chính luận bất hủ: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
– Luận cứ 4: “Xúc cảnh” : đoá hoa, hòn ngọc, …
=> Nhận xét:
- Cách đánh giá thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu sâu sắc, khoa học, chặt chẽ và toàn diện.
- Dẫn chứng tiêu biểu, xúc động, giọng văn khi hào hùng sôi sục, khi nghẹn ngào thương cảm.
- Phạm Văn Đồng qua đó: Bộc lộ thái độ ngợi ca ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu và tâm huyết với truyền thống yêu nước, bất khuất cảu nhân dân ta.
c. Luận điểm 3: Đánh giá tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên.
– Luận cứ 1: giá trị nội dung của tác phẩm Lục Vân Tiên:
- Ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quí ở đời, ca ngợi những con người trung nghĩa.
- Hình tượng nhân vật không khô cứng theo khuôn mẫu của văn học Nho gia mà gần gũi, giản dị, sống động.
– Luận cứ 2: giá trị nghệ thuật.
- Lối văn nôm na giản dị, là văn nói, văn kể.
- Nhiều người thuộc, nhớ, truyền miệng nhau tác phẩm, nhân dân miền Nam say sưa tác phẩm.
=> Nhận xét:
- Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ rằng: Người ta say sưa nghe Lục Vân Tiên không chỉ về nội dung mà vì văn hay của Lục Vân Tiên, hay chính ở sự giản dị, mộc mạc, chân chất, dễ hiểu, dễ thuộc, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.. Đây là nhận định có cơ sở khoa học xác đáng.
- Đó cũng chính là định hướng phê bình văn học: Khi đánh giá giá trị một tác giả, tác phẩm văn chương, không nên chỉ căn cứ vào tính hoa mĩ trau truốt của ngôn từ mà còn phải căn cứ vào ảnh hưởng của nội dung tác phẩm đến tâm thức người đọc sức sống của tác phẩm trong người đọc.
3. Kết thúc vấn đề:
Khẳng định lại vị trí, vai trò của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử văn học:
- Một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta.
- Thơ văn ông nêu cao sứ mạng của văn học, người nghệ sĩ – chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
- Bộc lộ lòng tưởng nhớ, tự hào về Nguyễn Đình Chiểu.
Mục Lục
ToggleAudio Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Video Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc – Mẫu 1
Năm 1963, ở miền Bắc nước ta, lễ kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu đã được tổ chức hết sức trọng thể. Đây được xem là một cái mốc giàu ý nghĩa của tiến trình nghiên cứu về nhà thơ yêu nước lớn này của dân tộc. Trong số những bài viết ra đời nhân dịp đó, tiểu luận “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” của Phạm Văn Đồng có một vị trí khá đặc biệt, do cách đặt vấn đề và khả năng gợi mở hướng nghiên cứu mới của nó. Chính lời mở và lời kết của áng văn đã cho thấy rõ điểu này. Lời mở: “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”. Và lời kết: “Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng”. Qua những câu vừa trích, có thể hiểu rằng trước đó, sự nghiệp văn học của Nguyền Đình Chiểu còn chưa được đánh giá một cách toàn diện và thơ văn yêu nước của ông còn chưa được chú ý nghiên cứu cho đúng với tầm mà nó có. Thêm nữa, trong lúc công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà đang đòi hỏi việc khơi dậy lòng yêu nước và ý chí chiến đấu của toàn dân, đổng thời yêu cầu xây dựng một nền văn nghệ mới phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc đang được đặt ra trên một tầm độ mới, việc khai thác nội dung yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu càng có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Viết về một vấn đề nghiêm trang như vậy, người ta có thể chọn một kiểu trình bày duy lí, ít màu sắc biểu cảm. Nhưng ở đây, ngay từ đầu, tác giả đã biểu lộ cảm xúc nồng nàn của mình khi nêu những đòi hỏi cần thiết đối với việc đánh giá giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Cách nói “ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu”, cách ví von “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đinh Chiểu cũng vậy “một mặt dễ gây ấn tượng vì sự tươi mát của giọng văn và vì liên tưởng hợp lí, mặt khác, phản ánh được khá trung thực sự trân trọng, yêu quý hết mực của tác giả đối với đối tượng được ông nói đến. Phải nói rằng một kiểu nhập đề như vậy có thể tạo được những hiệu quả tác động rất tốt đẹp. Trước khi đồng tình với người viết về những lập luận, người ta đã chia sẻ với ông về một thái độ – thái độ đối với nhà thơ của dân tộc và thái độ đối với người tiếp nhận áng vãn của chính mình.
Nội dung quan trọng nhất của bài viết là làm sáng tỏ giá trị to lớn của bộ phận thơ văn yêu nước trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu. Những lời đánh giá cao nhất, những lời ngợi ca nồng nhiệt nhất đã được nêu lên: “thơ văn yêu nước của Nguyễn Đinh Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta”, “tác phẩm là những trang bất hú”, “Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang”, “trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đinh Chiểu còn có những đoá hoa, những hòn ngọc rất đẹp”,… Tuy nhiên, nếu bài viết chỉ có những lời ngợi ca chung chung thì rất khó thuyết phục người đọc. Do hoàn toàn ý thức được điều này, Phạm Văn Đồng rất chú ý nêu và phân tích các dẫn chứng cụ thể. Tác giả đã vừa làm rõ mối quan hệ thống nhất giữa nhân cách con người nhà thơ và thơ văn của ông, lại vừa chú ý đặt bộ phận thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu vào đúng bối cảnh nó ra đời để đưa ra những kết luận cần thiết. Những đoạn nêu tiểu sử nhà thơ, tái hiện không khí lịch sử một thời được viết rất súc tích và giàu cảm hứng. Thái độ yêu ghét rành mạch, rõ ràng luôn được biểu lộ, khiến lịch sử sống dậy có hình, có khối, phập phồng hơi thở. Rõ ràng người viết đã thiết lập được sự “kết nối” giữa xưa và nay, giúp người đọc cảm nhận được sâu sắc rằng cái mạch sống của dân tộc đang chảy xuyên qua thời gian để trao tới cho chúng ta ngày nay những thông điệp giàu ý nghĩa.
Phạm Văn Đồng đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu với nhân dân, dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà các từ “nhân dân”, “dân tộc”, “đất nước” được nhắc tới với tần số cao như vậy trong bài. Theo tinh thần của bài viết, ta hiểu rằng nhờ sống gắn bó với nhân dân, dân tộc, nhờ biết nói lên những ý nguyện thiết tha của nhân dân, dân tộc mà Nguyễn Đình Chiểu được nhìn nhận như một tấm gương đạo nghĩa sáng ngời và thơ văn ông có được sức sống mãnh liệt đến thế. Tác giả cũng không quên nhắc tới quan niệm văn chương tiến bộ, đúng đắn của Nguyễn Đình Chiểu để làm nổi bật cái luận điểm về sự chú động của nhà thơ khi ông hướng ngòi bút của mình vào việc “chở đạo”, “đâm mấy thằng gian”. Xét sâu vào mục đích chính luận của bài viết, có thể thấy những điểm nhấn mà tác giả tạo ra như trên là hoàn toàn hợp lí. Cương vị, trách nhiệm xã hội của tác giả cũng theo đó mà được thể hiện một cách minh bạch, công khai.
Với tư cách là một người đọc nhạy cảm và am hiểu văn chương, tác giả bài viết đã có được sự cắt nghĩa đích đáng về một đặc điểm lớn của văn thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Đó là: chiếm phần lớn trong sáng tác của ông là “những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân”. Trong một thời “khổ nhục nhưng vĩ đại”, “oanh liệt và đau thương”, những tiếng “than khóc” cũng là những khúc ca – “khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang”. Đặt bài viết vào bối cảnh một thời mà giới nghiên cứu vẫn còn hơi nghi ngại đối với âm điệu bi thương trong sáng tác của nhiều nhà thơ quá khứ, sự đánh giá có tính chất khẳng định như trên của Phạm Văn Đồng là rất có ý nghĩa, có thể gợi mở được nhiều điều vế phương pháp luận đánh giá văn học.
Phần sau của bài viết được dành để nói về Lục Vân Tiên, một “tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu, rất phổ biến trong dân gian, nhất là ở miền Nam”. Mặc dù Lục Vân Tiên đã được yêu thích xứng với giá trị của nó, và vấn đề đáng quan tâm hơn lúc này là đánh giá đúng tầm vóc của bộ phận văn thơ yêu nước trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng hẳn tác giả thấy việc nói thêm về Lục Vân Tiên ở đây không phải là không cần thiết. Vấn đề là phải thấy được thực chất sức hấp dẫn cúa truyện thơ này. Theo tác giả, nếu chí nhìn Lục Vân Tiên như một “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa” thì đúng nhưng chưa đủ, bởi nó dễ đánh đồng giá trị của tác phẩm với giá trị của luân lí mà tác phẩm đề cao trên bề nổi. Nếu nhìn qua, ta dễ tưởng rằng nhiều nhân vật của Lục Vân Tiên hành xử không khác gì những nhân cách mẫu mực của đạo đức phong kiến, nhưng sự thực, họ là “những con người có ruột gan, xương thịt” và thực chất đạo lí sống của họ là đạo lí sống của nhân dân. Tác giả khẳng định : “Với những lẽ đó họ gần gũi chúng ta và câu chuyện của họ làm chúng ta cảm xúc và thích thú”. Cho đến nay, có lẽ luận điểm này của Phạm Vãn Đồng vẫn là một luận điểm độc đáo, còn nguyên giá trị khám khá.
Bên cạnh việc thực sự hiểu và đồng cảm với Nguyễn Đình Chiểu, tác giả cũng tỏ ra nắm vững lịch sử tiếp nhận tác phẩm Lục Vân Tiên. Tuy không phân tích kĩ cái hay của lời văn ở truyện thơ này nhưng tác giả tỏ rõ quan điểm khẳng định của mình đối với nó. Những câu thơ được Phạm Văn Đồng dẫn ra quả là những câu đầy vang vọng, chan chứa chất thơ, đích thực là sản phẩm của một tài năng nghệ thuật lớn. Phải chăng, từ những điểu được trình bày cuối bài viết, người đọc có thể nghĩ tới một tiêu chí đánh giá không cứng nhắc về cái gọi là phẩm tính văn chương của một sáng tác thơ ca ? Văn hay hay không hay, sự đánh giá đó nhiều khi còn tuỳ thuộc vào cách đọc, cách hiểu về đặc trưng thi pháp của một sáng tác.
Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc quả là một bài nghị luận văn học có giá trị. Ngoài việc chứa đựng những khám phá đáng trân trọng dối với thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nó còn mang tính chất của một lời kêu gọi hướng về tầng lớp văn nghệ sĩ, mong họ hết lòng đem ngòi bút của mình phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Đặc biệt, nó cũng đặt nền tảng cho việc xác lập một quan điểm đánh giá đúng đắn đối với các hiện tượng văn học của quá khứ. Bài viết thực sự đã kết tinh được những ưu điểm thường thấy của văn nghị luận Phạm Văn Đồng: chứa chan nhiệt huyết đối với các vấn đề lớn của đất nước ; lí trí và tình cảm quyện chặt vào nhau trong mỗi dòng văn ; tạo được sự cân bằng giữa những đề xuất thiết thực và những gợi mở về một con đường đi tới các đích xa…
Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc – Mẫu 2
Thủ tướng Phạm Văn Đồng là nhà chính trị, ngoại giao tài ba đồng thời cũng là nhà văn hóa lớn. ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Với những cống hiến lớn lao cho đất nước, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương cao quý khác.
Về văn học, Phạm Văn Đồng viết nhiều bài nghị luận đặc sắc về các danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Mình… Trong đó có bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.
Bài văn viết nhân dịp kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ Đồ Chiểu (3-7- 1888) và đăng trên Tạp chí Văn học tháng 7 – 1963. Đây là thời kì đế quốc Mĩ quyết định tài trợ, can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở miền Nam. Phong trào đấu tranh chống Mĩ và tay sai của nhân dân miền Nam nổi lên khắp nơi, tiêu biểu là phong trào đồng khởi của nhân dân Bến Tre. Hoàn cảnh lịch sử ấy giúp chúng ta hiểu thêm tại sao tác giả Phạm Văn Đồng lại nhấn mạnh thời điểm khi ông viết bài văn ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu.
Nội dung sâu sắc và mới mẻ mà tác giả đặt ra trong bài viết là: Nguyễn Đình Chiểu, một nhân cách trong sáng, một nhà thơ lớn của dân tộc cần phải được đánh giá đúng đắn hơn, đầy đủ hơn.
Bài viết có sức lôi cuốn mạnh mẽ do ngôn ngữ tác giả sử dụng vừa xúc động, thiết tha, kết hợp với nhiều hình ảnh, ngôn từ có khả năng gợi tả, gợi cảm cao, đặc biệt là phương pháp nghị luận chặt chẽ và xác đáng.
Tác giả mở đầu bài viết bằng một nhận định khách quan có tính thời sự, chứa đựng luận đề (chủ đề) của bài viết: Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này. Lúc này là năm 1963, đất nước ta đang bị tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhân dân miền Bắc vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa là hậu phương lớn tiếp sức cho nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ ngụy quyền tay sai bán nước.
Từ năm 1954 đến 1959, đế quốc Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai chính sách tố Cộng, ra sức truy nã, bức hại những người kháng chiến cũ, bắt bớ, tù đày và gây ra nhiều vụ tàn sát đẫm máu khắp miền Nam.
Từ năm 1960, Mĩ quyết định tài trợ và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến. Năm 1964, chúng đưa thêm 16.000 binh lính và sĩ quan Mĩ vào miền Nam. Chỉ một năm sau, con số ấy đã tăng lên tới 543.000.
Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh chống Mĩ – ngụy của nhân dân miền Nam nổi lên mạnh mẽ, quyết liệt; tiêu biểu nhất là phong trào đồng khởi ở Bến Tre. Đây là thời điểm cách mạng miền Nam đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Hoàn cảnh lịch sử trên giúp chúng ta hiểu thêm tại sao Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại nhấn mạnh thời điểm ông viết bài văn ca ngợi nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu nhằm khẳng định truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, động viên nhân dân cả nước vùng lên tiêu diệt bọn bán nước và cướp nước.
Tác giả đã sử dụng ẩn dụ nghệ thuật để khẳng định tài năng văn chương và tấm lòng yêu nước, thương dân vô cùng đáng quý của nhà thơ đất Lục tỉnh Nam Kỳ: Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm!
Theo tác giả, có hai lí do khiến ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu chưa sáng tỏ trên bầu trời văn nghệ của dân tộc. Lí do thứ nhất: Nhiều người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của truyện thơ Lục Vân Tiên và họ hiểu khá thiên lệch về nội dung, nghệ thuật của truyện. Lí do thứ hai: Phần lớn người đọc biết rất ít về thơ văn yêu nước 1 một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
Từ đó, tác giả đi đến kết luận; Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà tác phẩm là những trang bất hũ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu lúc chúng đặt chân lên đất nước chúng ta. Những luận điểm nêu trong phần mở bài này đã được tác giả phân tích và chứng minh để làm sáng tỏ ở phần sau.
Trong phần thân bài, trước hết tác giả giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu, nhấn mạnh đến khí tiết của một nhà thơ yêu nước, thương dân, trọn đời phấn đấu hi sinh vì nghĩa lớn: Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà nho, nhưng sinh trưởng ở đất Đồng Nai hào phóng, lại sống giữa lúc nước nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán nước để giữ ngai vàng, nhưng khắp nơi, nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu nước. Vì mù cả hai mắt, hoạt động của người chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài những giá trị văn nghệ, còn quý giá ở chỗ nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thường của tác giả, và ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại!
Tác giả khẳng định: Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương chói sáng về tinh thần yêu nước thiết tha và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Quan điểm của ông là dùng thơ văn làm vũ khí chiến đấu chống xâm lược, ca ngợi chính nghĩa và truyền thống đạo lí tốt đẹp của nhân dân lao động, phê phán những kẻ lợi dụng văn chương để làm những điều xằng bậy, xấu xa. Ý trên đã được thể hiện qua hai đoạn văn ngắn gọn và cô đúc: Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ hi sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng:
Học theo ngòi bút chí công
Trong thi cho ngụ tấm lòng Xuân thu
Đối với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút, viết văn là một thiên chức. Và Nguyễn Đình Chiểu trọng chức trách của mình chừng nào thì càng khinh miệt bọn lợi dụng văn chương để làm việc phi nghĩa chừng nấy:
Thấy nay cũng nhóm văn chương
Vóc dê da cọp khôn lường thực hư!
Sau khi khẳng định cuộc đời và quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, tác giả lần lượt lấy thơ văn yêu nước và tác phẩm Lục Vân Tiên để chứng minh.
Khi phân tích thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng đã đặt vào bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ của nhân dân Nam Bộ với phong trào chống Pháp do Trương Định, Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo và trong dòng chảy của văn thơ yêu nước giai đoạn này để thấy rõ nguồn mạch phát sinh cảm hứng là tất yếu, đồng thời khẳng định vị trí lá cờ đầu của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ văn yêu nước chống Pháp thời kì cận đại cuối thế kỉ XIX.
Tác giả nhận xét về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu bằng một luận điểm ngắn gọn, cô đúc: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng Pháp oanh, liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ từ 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời.
Vì sao tác giả lại mở đầu phần này bằng việc tái hiện hoàn cảnh lịch sử nước ta trong giai đoạn lịch sử sau năm 1860? Bởi vì một nhà văn chỉ thực sự lớn khi tác phẩm của nhà văn ấy phản ánh một cách trung thành những đặc điểm cơ bản nhất của một giai đoạn tịch sử có ý nghĩa trọng đại đối với đời sống của đất nước, nhân dân. Riêng điểm này, Nguyễn Đình Chiểu đã xứng đáng là ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.
Trong khi vua quan nhà Nguyễn thua trận đầu hàng cắt đất dâng cho giặc thì các tầng lớp nhân dân Nam Bộ lúc bấy giờ, nhân dân lao động và các bậc sĩ phu đều kiên quyết vùng dậy đánh giặc cứu nước. “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Phong trào bắt đầu dấy lên ở miền Đông, sau lan rộng khắp nơi ở “Lục tỉnh”, biến thành cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, nhiều nơi, nhiều lúc sôi nổi và mạnh mẽ lạ thường, khiến cả kẻ thù cũng không tiếc lời tỏ lòng khâm phục…
Tác giả gọi thời kì Nguyễn Đình Chiểu sống là một thời khổ nhục nhưng vĩ đại. Vì thế, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu vừa là tấm gương phản chiếu một thời đại, vừa là lời kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh và ngợi ca những nghĩa sĩ dũng cảm, đồng thời cũng là lời than khóc cho những anh hùng thất thế đã bỏ mình trong cuộc chiến đấu vì nước, vì dân.
Tác giả khẳng định: Cho nên không phải ngẫu nhiên mà thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, một phần lớn là những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước và than khóc những người Hệt sĩ đã trọn nghĩa với dân.
Song, văn chương chân chính còn phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là như thế. Phạm Văn Đồng khẳng định: Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lớn lao bởi sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống thực dân, bằng cách làm cho lòng người rung động trước những hình tượng sinh động và não nùng của những con người suốt đời tận trung với nước, trọn nghĩa với dân, giữ vẹn khí phách hiên ngang cho dù chiến bại.
Mặt khác, bản chất của văn chương là sáng tạo. Văn chương đóng góp cho cuộc đời bằng những cái độc đáo, chưa từng thấy ở các tác phẩm trước đó hay cùng thời ấy. Đó là lí do khiến Phạm Văn Đồng nói đến bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc nhiều nhất và hào hứng nhất.
Bài văn nghị luận Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc được tác giả viết nên không chỉ bằng một trí tuệ sáng suốt, sâu sắc mà còn bằng một cảm xúc mạnh mẽ khác thường. Sự kết hợp giữa con tim và khối óc đã khiến tác giả viết được những câu văn hay nhất, làm rung động lòng người. Nhưng tác giả đã không viết về Nguyễn Đình Chiểu với nỗi tiếc thương của một người hoài cổ mà tác giả luôn nhìn người xưa từ hôm nay và đặt ra vấn đề vì cuộc sống hôm nay. Chính vì thế mà những con người đang sống hết mình trong cuộc chiến đấu hào hùng chống đế quốc xâm lược ngày càng có điều kiện để thông cảm hơn với một con người cũng đã sống hết mình trong công cuộc chống thực dân Pháp oanh liệt mà đau thương thuở ban đầu. Điều ấy cũng đã khiến cho Nguyễn Đình Chiểu trở thành ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng.
Nghệ thuật của đoạn văn này thể hiện ở phương pháp lập luận chặt chẽ, ở bố cục rõ ràng, mạch lạc, ở ngôn ngữ trong sáng, tự nhiên với những lời bình hàm súc, sắc sảo, mới mẻ về bài Văn nổi tiếng: Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.
Tác giả dẫn một đoạn của bài Văn tế, so sánh với Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi rồi bình: Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Bài cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang: “Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc… muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Kết thúc đoạn văn này, tác giả bày tỏ lòng tưởng nhớ đến hương hồn của nhà thơ yêu nước cùng những nghĩa quân đã anh dũng hi sinh cho nghĩa lớn: Có lẽ dưới suối vàng, linh hồn của Nguyễn Đình Chiểu và nhũng nghĩa quân lúc bấy giờ, ngày nay phần nào đã được hả dạ. Phần tiếp theo, tác giả giới thiệu truyện Lục Vân Tiên, tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, nhất là ở miền Nam và chỉ ra một số nhận xét chưa đúng về truyện Lục Vân Tiên. Ông chứng minh giá trị của tác phẩm này bằng cách phân tích cái hay, cái đẹp về cả nội dung lẫn nghệ thuật: Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa! Tác giả cũng nhận xét một cách khách quan là: Tất nhiên, những giá trị luân lí mà Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm của chúng ta thì có phần đã lỗi thời… về mặt nghệ thuật của tác phẩm Lục Vân Tiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng chỉ ra rằng: về văn chương của Lục Vân Tiên, phải để ý đây là một chuyện “kể”, chuyện “nói”. Tác giả cố ý viết một lối văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng rãi trong dân gian. Cho nên, dù có chỗ này chỗ khác lời thơ chưa được hay, chưa được trau chuốt thì cũng là điều khó tránh khỏi. Dẫu sao đôi chỗ sơ sót về văn chương không thể làm giảm giá trị văn nghệ của bản trường ca thật là hấp dẫn từ đầu đến cuối. Đánh giá trên đây cho thấy tác giả là người luôn giữ được sự trung thực và công bằng trong khi nghị luận.
Bài viết kết thúc bằng những câu văn thể hiện tình cảm kính yêu và lòng biết ơn chân thành: Nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (ngày 3 tháng 7 năm 1988), trong lòng chúng ta, chúng ta hãy đốt một nén hương để tưởng nhớ người con quang vinh của dân tộc.
Giá trị bài nghị luận văn học Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chỉ nằm ở nội dung sâu sắc, xúc động mà còn ở phương pháp lập luận khúc chiết, mạch lạc, ở ngôn ngữ trong sáng, giàu cảm xúc, có sức thuyết phục cao. Bằng hiểu biết thấu đáo, cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ và nhiệt tình của một người gắn bó hết mình với nước, với dân, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít giữa thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ và với thời đại hiện nay. Tác giả hết lòng ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ trọn đời dùng cây bút làm vũ khí chiến đấu cho dân, cho nước: Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.
Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc – Mẫu 3
Phạm Văn Đồng là một nhà cách mạng với nhiều cống hiến, một nhà giáo dục giàu tâm huyết và là một nhà lí luận văn nghệ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong vai trò của một nhà lãnh đạo, Phạm Văn Đồng không chỉ đưa ra những ý kiến chỉ đạo, sự quan tâm tới đường lối phát triển của văn nghệ mà còn có nhiều bài viết sắc sảo, giàu ý nghĩa về tiếng Việt, về những danh nhân văn hóa Việt Nam và tác phẩm “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” là một trong số đó. Ra đời nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, bài viết đã đưa ra những ý kiến, những bình giá sâu sắc và ý nghĩa về những giá trị của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đối với dân tộc.
Mở đầu bài viết, tác giả Phạm Văn Đồng đã nêu lên vấn đề của toàn bộ tác phẩm một cách rất đặc biệt. Tác giả đã so sánh Nguyễn Đình Chiểu như một ngôi sao – ngôi sao có “ánh sáng khác thường”, “phải chăm chú nhìn thì mới thấy” và “càng nhìn thì càng thấy sáng”. Với cách so sánh độc đáo đấy, tác giả đã giúp người đọc nhận thấy rằng, cũng giống như những ngôi sao kia, Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao có ánh sáng khác thường với những tác phẩm thơ văn có vẻ đẹp riêng mà người đọc phải đi sâu khám phá, tìm tòi thì mới có thể phát hiện ra nó. Đồng thời, trong phần mở đầu bài viết, tác giả cũng chỉ ra rằng nhiều người chỉ biết đến Nguyễn Đình Chiểu với tư cách là tác giả của “Lục Vân Tiên”, ít biết về thơ văn yêu nước của ông.
Với cách nêu vấn đề độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc, trong phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả Phạm Văn Đồng đã giải quyết vấn đề ấy, đi sâu khám phá “ánh sáng khác thường” trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Trước hết, tác giả nêu lên “ánh sáng khác thường” trong cuộc đời và quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, anh dũng cho mọi người học tập và noi theo, suốt cả một đời luôn nỗ lực phấn đấu vì nghĩa lớn. Dẫu bị mù cả hai mắt, không thể đứng lên chiến đấu cùng nhân dân nhưng ông đã dùng văn chương để chiến đấu và để ghi lại những năm tháng khổ đau mà vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Và bởi vậy, với Nguyễn Đình Chiểu, văn chương chính là một thứ vũ khí để chiến đấu, đúng như ông từng viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Đồng thời, với ông, viết văn đó là một thiên chức và ông luôn coi trọng chức trách ấy của mình. Thêm vào đó, với tác giả Phạm Văn Đồng, “ánh sáng khác thường” trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn thể hiện trong thơ văn yêu nước, chống ngoại xâm. Trước hết, thơ văn yêu nước của Đồ Chiểu đã làm bừng sống dậy trong tâm trí người đọc những phong trào chống Pháp oanh liệt, bền bỉ của những người dân Nam Bộ trong suốt 20 năm trời – từ năm 1860 về sau. Với điều ấy đã cho chúng ta thấy thơ văn Nguyễn Đình Chiếu có giá trị lịch sử to lớn, không chỉ làm sống dậy mà nó còn là nơi lưu giữ những trang sử vẻ vang, hào hùng của nhân dân Nam Bộ nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những áng thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, nhất là những bài văn tế và đặc biệt là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã ngợi ca những anh hùng suốt đời vì dân vì nước và đồng thời còn là tiếng khóc thương trước sự hi sinh, những đau thương, mất mát mà họ phải gánh chịu. Thêm vào đó, bài thơ “Xúc cảnh” cũng là một trong số những bông hoa, “những hòn ngọc” tạo nên vẻ đẹp cho thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu. Và cuối cùng, nhắc tới vẻ đẹp của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu không thể không nhắc tới “Lục Vân Tiên” – tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu và rất phổ biến trong nhân dân, đặc biệt là vùng Nam Bộ. Bàn về tác phẩm “Lục Vân Tiên”, tác giả đã chỉ ra những giá trị của tác phẩm. Trước hết, có thể coi “Lục Vân Tiên” là một bản trường ca “ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa”. Đồng thời, sức hấp dẫn của tác phẩm còn ở lối viết nôm na, dễ nhớ, dễ hiểu, là một bản trường ca hấp dẫn từ đầu đến cuối, dẫu còn đôi chỗ sai sót. Tuy nhiên, trong bài viết của mình, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của tác phẩm đó chính là những điều mà Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong tác phẩm dẫu vẫn còn nhiều giáo huấn đáng quý trọng nhưng có một số luân lí đã lỗi thời và có chỗ lời văn không hay lắm.
Trên cơ sở làm nổi bật “ánh sáng khác thường” của Đồ Chiểu, phần cuối của tác phẩm đã khái quát lại cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu. Với một câu văn mang tính khái quát cao, Phạm Văn Đồng đã khẳng định “Nguyễn Đình Chiểu là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta”. Đồng thời, Nguyễn Đình Chiểu chính tấm gương sáng trong văn hóa nghệ thuật cũng như trên mặt trận tư tưởng.
Tóm lại, với những tảng viết giàu hình ảnh, ngôn từ hấp dẫn cùng cách lập luận chặt chẽ, tác phẩm “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” đã giúp chúng ta cảm nhận được một cách trọn vẹn, đúng đắn và ý nghĩa về cuộc đời, sự nghiệp văn chương và những đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu đối với nền văn nghệ của dân tộc ta.
Mời các bạn xem thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:
- Bài giảng Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc Ngữ văn 12
- Soạn bài lớp 12: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Phân tích tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12, Soạn bài lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)