Phân tích “Đồ gốm gia dụng của người Việt”

Phân tích “Đồ gốm gia dụng của người Việt” là tài liệu học tập được TaiLieuViet biên soạn chi tiết, nhằm giúp các bạn học sinh học tốt môn Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!

Bản quyền tài liệu thuộc về TaiLieuViet, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.

Văn hóa của một đất nước có thể được thể hiện ở rất nhiều khía cạnh khác nhau từ ngôn ngữ, trang phục đến ẩm thực, âm nhạc,… Bài viết “Đồ gốm gia dụng của người Việt” cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích, chứng minh rằng những đồ dùng trong gia đình cũng phản ánh nề nếp sinh hoạt, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ,.. của dân tộc.

Văn bản “Đồ gốm gia dụng của người Việt” có cấu trúc của bài viết logic, có thể chia làm bốn phần. Phần một, tác giả giới thiệu về vấn đề thuyết minh. Phần hai tập trung giới thiệu về nguồn gốc, xuất xứ của chiếc bát. Phần ba nêu lên đặc điểm của đồ gốm thời Lý- Trần. Phần bốn nêu lên xu thế sử dụng của đồ gốm gia dụng.

Ở phần đầu, tác giả nêu lên quan điểm về sự phát triển riêng của đồ gốm sứ để phân biệt nó với những đồ sành như chum, vại, nồi niêu. Chỉ riêng chiếc bát ăn cơm là có sự thay đổi theo từng thời đại, từ đó cho thấy tập tục ăn ở mỗi thời, mỗi vùng. Cách giới thiệu vấn đề thuyết minh rất rõ ràng, rành mạch, thể hiện được tầm quan trọng của đối tượng được thuyết minh.

Sang phần hai, tác giả tập trung nói về lịch sử của những chiếc bát. Người viết đưa ra một phỏng đoán: “Tiền thân của cái bát có lẽ do con người dùng vỏ hoa quả như vỏ quả dừa và vỏ trai, sò để đựng thức ăn, sau đó có thể làm những chiếc bát bằng gỗ, cuối cùng cái bát ra đời”. Một chiếc bát gắn liền với nền ẩm thực, phong tục, nét văn hóa của mỗi thời đại và cho thấy con mắt thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp thay đổi theo thời gian. Cái bát thuyền thời Hán rất đơn giản, “có dạng như một lòng bàn tay, có hai cạnh để cầm và nó cũng giống như hình một chiếc thuyền thúng”. Điều này làm nên nét đặc biệt của chiếc bát thuyền so với những loại bát khác “có thể tích cơ bản là hai lòng bàn tay chụm lại, mà con người đã từng làm như thế để uống nước. Đó chính là chiếc bát ăn cơm thông thường ngày nay”. Sự đơn giản , tiện lợi của những chiếc bát ấy đã được lưu truyền và tận dụng trong xã hội hiện đại. Đến thời Lý – Trần, ta lại bắt gặp những chiếc bát có hoa văn cầu kì, trang nhã. “những chiếc bát men đen, men ngọc thời Lý và những chiếc bát đàn thời Hậu Lê lại có dạng loe miệng và thót đáy như một cái nón, khả năng vuốt bàn xoay hình nón cũng dễ hon vuốt hình tròn cong đều từ chân lên thành. Cái bát cong đều như thế có trong gốm hoa lam thời Trần và chúng có chân rất cao”. Đoạn văn có cách trình bày thông tin rõ ràng, giúp người đọc nắm bắt tường tận nguồn gốc hình thành, xuất xứ của đồ gia dụng.

Ở phần ba, tác giả đã thể hiện thái độ ngạc nhiên, thú vị khi nói về đồ gốm thời Lý – Trần: “Đồ gốm gia dụng thời Lý – Trần quá thanh nhã khiến chúng ta không thể tưởng tượng rằng có thời con người sống cao sang như thế (..) Những chiếc chậu, những chiếc âu mà hôm nay chúng ta nâng niu như cổ vật quý hiếm thì ngày xưa chúng chỉ được để rửa ráy chân tay mà thôi”. Không chỉ nghiên cứu những chiếc bát dựa trên tiến trình lịch sử, người viết còn tìm hiểu chúng trên bình diện văn hóa sinh hoạt hằng ngày. Điều này làm cho bài viết được toàn diện và sâu sắc hơn. “Bát ăn cơm, bát chiết yêu, ang và âu, đĩa lòng nông vài cỡ, đũa cả, đũa ăn, muôi bằng gỗ, còn thìa thì hầu như không có, và thế là đủ cho một bữa ăn gia đình, tối bắc chõng nhỏ ra sân đặt mâm cơm lên, mọi người ngồi xung quanh bằng ghế đẩu. Những đồ gốm này thường có men trắng đục, trắng xanh, ít hoa văn, mỏng manh, dễ võ, cấu tạo đơn sơ, chất lượng đất không tinh, nhưng giá rẻ”. Bài viết chứa nhiều hình ảnh để minh họa sinh động. Những vấn đề được đề cập đến trong bài vừa mới mẻ lại vừa gần gũi nên tác giả không cần đưa ra số liệu thống kê mà vẫn tạo được sự tin tưởng ở người đọc.

Xu hướng sử dụng bát còn cho thấy sự giao thoa giữa văn hóa của các cuộc gia và sự phát triển trong kinh tế, văn hóa. “Từ sau thế kỉ XV, xu hướng đồ dân gian và cung đình ngày càng tách biệt, thậm chí triều đình còn mở những lò riêng hoặc đặt những lỗ hàng riêng có đề chữ Nội phủ, hơn nữa là sang Trung Hoa đặt mua đồ gốm sứ cho hoàng triều”. Người ta thường nói, “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Nhân dân ta rất coi trọng văn hóa trên bàn ăn nên cũng rất chăm chút, kĩ lưỡng trong việc sử dụng bát: “Dân thành thị cũng có xu hướng dùng đồ gốm gia dụng Trung Hoa và Nội phủ, tạo ra sự phân biệt giữa nông thôn và thành thị trong thị trường đồ gốm. Loại hình gốm sử gia dụng Trung Hoa và Nội phủ cũng phong phú hơn. Đĩa to có thể đựng được cả con gà hay cá chép lớn rán giòn, bát và âu múc canh có thể đụng đến nửa nồi canh riêu cua, bát ăn com, bát nhỏ đựng nước mắm chấm, đĩa nhỏ đựng chanh ớt, hạt tiêu, nậm hay lục bình đựng rượu, chén tống uống rượu và trà, thìa nhỏ, muôi lớn. Rồi nào ang, liễn, bát quả, tô,… nghĩa là bữa com không còn giản dị tương cà mà nhiều món khác nhau đòi hỏi nhiều đồ ăn, đồ đựng khác nhau. Bàn ăn gốm gia dụng trong xã hội mài như bức tranh trừu tượng với bốn hoặc sáu ghế”.

Bài viết “Đồ gốm gia dụng của người viết” đem lại cho người đọc những tri thức bổ ích về lịch sử, công dụng của những chiếc bát truyền thống. Các thông tin trong văn bản được liên kết với nhau mạch lạc, cấu trúc logic, hình ảnh minh họa phong phú, có sự kết hợp với thái độ của tác giả. Từ đó, bài viết cho ta thấy sự phong phú trong vẻ đẹp của văn hóa dân tộc.

———————————————————–

Kho tài liệu phong phú của TaiLieuViet vẫn còn rất nhiều tài liệu hay chờ các bạn khám phá. Mời các bạn truy cập vào Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo, Văn mẫu lớp 11 Chân trời sáng tạo để tìm kiếm những tư liệu mới. Chúc các bạn học tốt!