Phân tích đoạn thơ Đất Nước là tài liệu được đội ngũ giáo viên của TaiLieuViet biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung từng phần của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của mình.

HOT: Đáp án Ngữ văn THPT Quốc gia 2023

Dàn ý Phân tích Đất nước – Mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm và dẫn dắt vào đoạn thơ Đất nước.

2. Thân bài

a. Nguồn gốc của Đất nước

Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc. → Văn hóa dân gian đặc trưng của đất nước. Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

b. Định nghĩa Đất nước

“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn”: Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của đời sống gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.

“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”: những lời tâm tình, thủ thỉ của tình yêu, không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.

→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước: Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố Đất và Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí – lịch sử.

c. Cách cảm nhận Đất nước

Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ, “ai đã khuất, bây giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò”: Đất Nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.

→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.

d. Ý thức trách nhiệm đối với Đất nước

Đất Nước có trong máu thịt mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.

“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn”: truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái của những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.

“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng”: thế hệ tương lai phải có trách nhiệm đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.

“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dang hình xứ sở, muôn đời”: khẳng định Đất Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Đất Nước.

→ Mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi mỗi người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy.

e. Tư tưởng Đất nước là của nhân dân

Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái,Tổ Hùng Vương, Núi Bút, Non Nghiên, Hạ Long thành, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.

Bốn nghìn năm, người người, lớp lớp, con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập bờ tre).

→ Đất Nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa đoạn thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời rút ra bài học và liên hệ thực tiễn.

Dàn ý Phân tích Đất nước – Mẫu 2

1. Mở bài

Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.

Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc. → Văn hoa dân gian đặc trưng của đất nước.

Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

“Đất là nơi anh đến trường
….……………………………
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn”: Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của đời sống gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.

“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”: những lời tâm tình, thủ thỉ của tình yêu, không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.

→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước: Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố Đất và Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí – lịch sử.

Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ: Đất Nước với rừng vàng, biển bạc, giàu có với những câu chuyện cổ tích quen thuộc, truyền thống con cháu Lạc Hồng, phong tục giỗ Tổ các vua Hùng.

“Ai đã khuất, bây giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò”: Đất Nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.

→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

“Anh, em, một phần Đất Nước, hài hòa, nồng thắm”: Đất Nước có trong máu thịt mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.

“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn”: truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái của những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng”: thế hệ tương lai phải có trách nhiệm đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.

“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dang hình xứ sở, muôn đời”: khẳng định Đất Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Đất Nước.

→ Cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi mỗi người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy.

→ Cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều: Địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

“Núi Vọng Phu”: địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam.

Hòn Trống Mái: hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng.

Tổ Hùng Vương: gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng.

Núi Bút, Non Nghiên: có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Nam.

Hạ Long thành: thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới.

Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.

Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.

→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Bốn nghìn năm, người người, lớp lớp, con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm.

+ Không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường.

+ Toàn dân đông đảo, là sự hóa thân của những anh hùng vô danh đã bền bỉ đấu tranh, gầy dựng làm nên Đất Nước với bề dày lịch sử bốn nghìn năm.

+ Sự khái quát sâu sắc về sự hòa nhập, sự hóa thân của con người trong phạm vi không gian và thời gian lớn.

Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập bờ tre).

+ Họ: những con người vô danh, những người lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường đã làm nên Đất Nước.

+ Điệp cấu trúc “họ…”: gợi những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, văn minh tinh thần, truyền thống chống giặc ngoại xâm.

– Tư tưởng đất nước của nhân dân:

+ Đất Nước này, của nhân dân: khẳng định Đất Nước của nhân dân do nhân dân làm ra.

+ Ca dao, thần thoại: trở về với cội nguồn dân tộc, với văn hóa dân gian, cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà độc đáo.

+ Ba phương diện của truyền thống tâm hồn dân tộc:

• Yêu em từ thuở trong nôi: thật say đắm, tha thiết trong tình yêu.

• Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội: quý trọng tình nghĩa.

• Biết trồng tre, đi trả thù: quyết liệt với kẻ thù.

→ Đất Nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.

→ Tư tưởng Đất Nước của nhân dân được thể hiện qua ba chiều cảm nhận về đất nước:

– Từ không gian địa lí

– Từ thời gian lịch sử

– Từ bản sắc văn hóa.

3. Kết bài

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.

Văn mẫu Phân tích Đất nước

Phân tích Đất nước – Mẫu 1

Không biết tự bao giờ, hình tượng thiêng liêng của Tổ quốc đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận trong thơ ca. Trong suốt chặng đường kháng chiến với biết bao cuộc vào sinh ra tử, hình tượng ấy lại càng trở nên rực rỡ hào hùng. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm được xem như nguồn sinh khí nở rộ trên đề tài đất nước.

Mở đầu khúc ca về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc về với với cội nguồn đất nước:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Đất nước hiện lên trong khái niệm của nhà thơ bắt nguồn từ chính cuộc sống giản dị, mộc mạc của người dân. “Ta” ở đây chỉ nhân vật trữ tình, vừa là lời bộc bạch của mỗi người dân Việt Nam. Khi ta lớn lên, đất nước “đã có rồi”. Cụm từ “đã có rồi” gợi ra một lịch sử oai hùng của đất nước, chạy dài qua hàng nghìn năm, từ thuở khai thiên lập địa, từ những thần thoại đi sâu vào văn hóa người dân, khi Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Ông đã cảm nhận được đất nước thật gần gũi qua “những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hồn của những câu chuyện huyền thoại, đưa ta về một thuở rất xa.

Sự hình thành của đất nước còn bắt nguồn từ phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Trước hết, sự hình thành đất nước gắn liền với truyền thống phong tục của người Việt. Đó là hình ảnh miếng trầu bà ăn, một sự hóa thân của tình nghĩa anh em, tình cảm vợ chồng son sắt chung thủy. Hình ảnh “tóc mẹ thì bới sau đầu” cũng là một nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của người mẹ: chịu thương, chịu khó, cần cù vất vả nuôi con lớn khôn từng ngày.

Sự chung thủy trong quan hệ vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” cũng góp mặt làm nên đất nước. Nguyễn Khoa Điềm có vận dụng ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau”. Và hình ảnh “muối mặn, gừng cay” gợi về một tình cảm vợ chồng, dù khó khăn gian khổ cũng không hề tách rời. Đất nước cũng là sự gắn bó của họ với ngôi nhà thân thuộc, mộc mạc qua “cái kèo cái cột thành tên”, thật đúng là cái chất của người Việt ta!

Nguyễn Khoa Điềm đã mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con gái để định nghĩa đất nước theo cách của riêng mình:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Tuổi thơ của ta không thể thiếu vắng hình ảnh mái trường yêu dấu. Đất nước hiện lên qua hình ảnh anh đến trường, mang theo bao ước mơ và hoài bão cuộc đời. Còn nơi em tắm là nơi có dòng sông xanh thẳm, hiền hòa. Từ mái trường tuổi thơ, con đường làng đến những bến nước, dòng sông. Tất cả đều là hiện thân cho đất nước. Đất nước cũng là nơi anh và em hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, chất chứa bao tâm tư, tình cảm sâu lắng chúng ta dành cho nhau. Trên hành trình định nghĩa về đất nước, tác giả đã mượn phép biến ảo của thơ tách đất nước ra thành Đất và Nước, rồi ghép nhập hai yếu tố đó vào nhau, gợi ra một chiều sâu lý tưởng về khái niệm này.

Tiếp nối mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ đưa ra chiều dài lịch sử của Đất Nước:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””

Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ câu hát dân gian Bình Trị Thiên để gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài cương vực lãnh thổ mà được cho bằng sự ngân vang của câu hát, ngợi ca rừng vàng biển bạc trù phú của mảnh đất Việt Nam. Sự yên bình ấy không phải tự nhiên mà có. Nó gắn liền với 4000 năm dựng nước và giữ nước của bao thế hệ ông cha:

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.

Những hình tượng quen thuộc về thần thoại, truyền thuyết như Chim, Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng lần lượt hiện ra, như một sự ngợi ca và khẳng định về nền văn hóa, có truyền thống lâu đời của nhân dân. Đất nước ấy là sự tiếp nối của các thế hệ từ “những ai đã khuất” đến “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Câu thơ vẽ ra một sơ đồ thế hệ, mỗi thế hệ đều góp phần làm nên vinh quang đất nước. Đồng thời, nó cũng như một sự gợi nhắc về công lao của ông cha ta, con cháu phải có trách nhiệm xây dựng đất nước ngày càng phát triển và giàu mạnh: “Hàng năm ăn đâu làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

Cuối cùng, nhà thơ đã đi đến sự thống nhất của đất nước qua cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng trên phương diện của thời gian:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước”

“Anh” và “em” là những cá nhân trong cộng đồng, dân tộc. Đất nước không xa lạ, cao siêu trừu tượng mà được kết tinh từ cuộc sống của mỗi người. Chính sự gắn bó máu thịt giữa cá nhân với cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại khi tình yêu lứa đôi hài hòa trong tâm hồn dân tộc. Khi chúng ta cầm tay nhau, cái riêng tư của tình yêu đôi lứa hài hòa nồng thắm trong tình yêu đất nước. Đây là hình ảnh biểu tượng cho sự hình thành khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước ngày càng vẹn tròn, to lớn.

Từ đó, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng đối với Đất Nước:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và chia sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”.

“Em ơi em” là lời nhắn nhủ tha thiết như được cất lên từ trái tim tình yêu lứa đôi hòa quyện với tình yêu đất nước đầy nhiệt huyết, mãnh liệt. Câu thơ như một định nghĩa được chia thành hai vế: đất nước là máu xương của mình. Trách nhiệm với đất nước cũng là trách nhiệm với chính bản thân mình. Chữ “hóa thân” đã diễn tả sâu sắc sự tự nguyện, cống hiến trọn vẹn cho đất nước của mỗi người dân.

Nếu ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lý, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân dân.

Một loạt những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta hiện ra trước mắt người đọc: Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”

Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Nó là hình ảnh tiêu biểu cho đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con, yêu chồng, tượng trưng cho sự thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta. Không chỉ kết tinh nên một hòn Vọng Phu mà đó còn là sự hóa thân thành huyền thoại của hòn Trống Mái – một cảnh đẹp ở Sầm Sơn biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, mãi mãi không chia lìa. Đó vốn chỉ là những hòn đá vô tri đều ẩn chứa vẻ đẹp của đời sống nhân dân từ ngàn đời.

Không chỉ là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tình yêu đôi lứa, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta trong sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”.

Một sự hóa thân kỳ diệu nữa cũng được hiện ra, đó là hình ảnh người học trò nghèo hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên:

“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên”

Núi Bút, non Nghiên là những ngọn núi đẹp trông như hình cái bút, nghiên mực. Những người học trò xưa thì cái bút, cái mực là một vật dụng vô cùng quan trọng. Vì thế mà qua đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người Việt.

Với niềm tự hào, say sưa với vẻ đẹp đất nước, nhà thơ lại một lần nữa vận dụng sự quan sát tinh tế và khả năng liên tưởng sáng tạo tài hoa được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng: “Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương”. Chín mươi chín con voi tượng trưng của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân suốt bốn nghìn năm. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hàng năm không thể quên được ngày tháng lịch sử mùng mười tháng ba:

“Hàng năm ăn đâu, làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”

Nhà thơ mở rộng hết khả năng sáng tạo và hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương: “Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm”. Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh: “Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Nhà thơ nhìn tất cả những thứ gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào hình tượng Đất Nước lớn lao.

Những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã được đặt tên cho sông núi: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,… Mọi danh lam thắng cảnh chỉ thực sự mang ý nghĩa cao cả và lấp lánh dòng máu tự hào dân tộc khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của nhân dân. Tất cả như hiện ra trước mắt Nguyễn Khoa Điềm, đó là những ruộng đồng, gò bãi đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Và sự hóa thân ấy là sự hóa thân của nhân dân suốt 4000 năm lịch sử:

“Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….”

Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn thơ diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành và niềm tự hào về chiều dài xa xăm bất tận của đất nước của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước của dân tộc. Câu thơ “những cuộc đời đã hóa núi sông ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Chính nhân dân đã sống và cống hiến như một huyền thoại làm nên hình sông, dáng núi suốt dọc chiều dài lịch sử đất nước của chúng ta.

Ở phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Đó là lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của chàng trai với cô gái người mình yêu:

Em ơi em hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm đất nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái con trai bằng tuổi chúng ta”

Đây là một cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn toàn diện cả chiều dài và chiều sâu. Dài về quãng thời gian oai hùng bốn nghìn năm, sâu về những chiến công và niềm tự hào của dân tộc xuyên suốt thời kỳ ấy. Ở đây, nhà thơ tập trung nói về những con người vô danh, bình dị. Cụm từ “năm tháng nào” không xác định kết hợp với từ “lớp lớp” chỉ sự đông đảo, các danh từ chung “con gái, con trai” tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Và họ nối tiếp nhau đứng lên xây dựng và giữ gìn quê hương bằng biết bao mồ hôi, xương máu:

“Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

Những người “cần cù làm lụng” chỉ nhân dân. Họ đã vất vả dãi dầu một nắng hai sương để làm nên sự sống và phồn thịnh cho đất nước. Những hạt gạo mỗi mùa thu hoạch, những bí kíp truyền từ đời này qua đời khác. Tất cả đều thể hiện một nét đẹp cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân, làm nên truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Không chỉ xây dựng mà trong những giây phút lâm nguy, đầy thử thách ấy của lịch sử, người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Họ đã sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết bao.

Trong những cuộc kháng chiến, có biết bao con người được gọi là anh hùng, lưu danh sử sách ngàn đời. Nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến những người lao động thầm lặng, vô danh:

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Họ là những người con gái, con trai, chưa một lần được lưu danh “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã hóa núi sông ta. Những điều bình dị thật sự đã làm nên một lịch sử vĩ đại ấy, một núi sông non nước vang vọng khí phách của giống nòi.

Nhân dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa dân tộc:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”

Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước ta: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nước ta nổi tiếng với nền văn hóa lúa nước từ bao đời nay nhờ phẩm chất lao động chịu thương chịu khó của nhân dân. Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa, nhân dân còn là người “chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi”. Tập quán này là cách dùng rơm con cúi để giữ lửa, truyền từ nhà này sang nhà khác, từ đời trước đến đời sau. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm Là một trải nghiệm đầy sâu sắc về sức mạnh và công lao của nhân dân. Không chỉ vậy, nhân dân là người “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Chính nhân dân đã bồi đắp và lưu truyền ngôn ngữ, kho tàng từ vựng quý báu của dân tộc ta qua biết bao thế hệ. Người “gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân” cũng là nhân dân. Câu thơ gợi về những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong thời điểm thiên tai và chiến tranh. nhưng cũng nhờ đó mà mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình vinh quang trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tất cả đều nằm trên một chữ S thân thương. Từ “họ” trong các câu thơ trên được lặp lại nhiều lần, đứng ở đầu mỗi dòng thơ đã gợi ra hình ảnh đông đảo nhân dân nối tiếp nhau lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước.

Tất cả ý thơ như dồn nén lại đến cuối cùng, Nguyễn Khoa Điềm với niềm tự hào kiêu hãnh đưa ra những lời khẳng định chắc nịch:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

“Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước suốt bốn nghìn năm lịch sử. Đất Nước của Nhân dân là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Vì ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân, được đúc kết nên từ kho tàng ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam.

Đó còn là những khoảnh khắc:

“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”

Ở đoạn thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Không chỉ say đắm trong tình yêu từ thuở còn trong nôi, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa. Và lại một lần nữa, truyền thuyết Thánh Gióng lại được gợi lại. Như vậy, say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, quyết liệt trong trả thù chiến đấu là bản sắc tinh thần nhân

Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”

Khổ thơ khép lại trong hình ảnh đất nước ta đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như một dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. Trên dòng sông ấy, âm vang những sắc màu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam. Thật vô cùng tự hào và yêu quý biết bao!

Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại cho người đọc những rung động thẩm mỹ và những cảm nhận trọn vẹn về Tổ quốc và nhân dân. Thật đúng như Lê Văn Huân đã từng ca ngợi về tài năng ấy: “Nguyễn Khoa Điềm đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ”.

Phân tích Đất nước – Mẫu 2

Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước.

Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước.

Mở đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”

Tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu đời, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thành Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.

Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liên với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.

Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân: Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.

Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” Ngày đó là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.

Tiếp nối sau khẳng định Đất nước là của nhân dân, tác giả định nghĩa về Đất nước vô cùng độc đáo:

“Đất là nơi em đến trường
.…………………………..
Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Đất nước không chỉ được cảm nhận bằng không gian địa lí hay chiều dài lịch sử mà Đất nước còn được cảm nhận bằng không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân thuộc. “Đất” gắn liền với hình ảnh, hoạt động của người con trai, “nước” gắn với vẻ đẹp của người con gái nhưng hai tiếng Đất nước lại hợp thành tình yêu đôi lứa mặn mà. Đất nước cũng là nơi để họ hẹn hò, trao nhau những yêu thương mùi mẫn, những kỉ niệm, những nhớ thương, mong mỏi của thời gian xa cách.

Người xưa có câu: “Đất lành chim đậu”, đất là nơi chim bay về làm tổ, nước là nơi con cá vùng vẫy giữa đại dương mênh mông. Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời gian dài hình thành nên sự trù phú của thiên nhiên, làm giàu cho đất nước để từ đó Đất nước trở thành nơi con người đoàn tụ làm ăn sinh sống và làm nên truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng bọc trăm trứng trở thành những thế hệ đầu tiên của đồng bào ta.

Từ những lí giải, cảm nhận trên về Đất nước, tác giả nhắn nhủ đến những thế con người dù đi trước, dù đi sau, dù ở bất cứ thời đại, hoàn cảnh nào cũng phải nhớ về cội nguồn, biết ơn cội nguồn và nhớ về ngày giỗ tổ Hùng Vương – người đã có công gây dựng nền móng nhà nước đầu tiên để có Đất nước bây giờ.

Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận dựa trên bề rộng của không gian địa lí, chiều dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.

Sau những nhận định, lí giải Đất nước trên những phương diện khác nhau, tác giả nêu lên trách nhiệm của con người đối với Đất nước:

“Trong anh và em hôm nay
……………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”

Đất nước dường như là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất nước của tình yêu đôi lứa là một đất nước hài hòa, nồng thắm. Đất nước của cả dân tộc đoàn kết là đất nước vẹn tròn, to lớn có sức mạnh chống lại mọi thế lực kẻ thù. Qua đây, tác giả thể hiện niềm tin yêu của mình vào thế hệ con cháu mai sau, rồi chúng sẽ mang đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu, rồi chúng sẽ phát triển đất nước này đến những tháng ngày mà hiện tại ta đang mơ mộng.

“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình” để từ đó, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi con người với Đất nước, phải biết gắn bó và san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, phải biết hi sinh, hóa thân để giữ vững dáng hình xứ sở để Đất nước này tồn tại muôn đời.

Đoạn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi chúng ta đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy. Từ đây, ta thấy rõ hơn cách cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm (địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…).

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.

Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.

Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.

Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm” cần cù, chăm chỉ làm lụng gây dựng cuộc sống tốt đẹp. Khi nước nhà có giặc, họ lại đứng lên chiến đấu anh dũng, mạnh mẽ một lòng một dạ cùng nhau đoàn kết lấy lại độc lập dân tộc. Họ có thể là những con người vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người giữ vững non sông này để có chúng ta ngày hôm nay. Không chỉ trên mặt trận chiến đấu mà họ còn là những anh hùng của đời thường. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập be bờ). Điệp cấu trúc “họ…” đã gợi ra lớp lớp những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp.

Đến đây, tác giả khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân: Đất Nước này, của nhân dân, do nhân dân làm ra gắn với những câu ca dao, thần thoại từ lâu đời, cội nguồn dân tộc, văn hóa dân gian. Đồng thời, tác giả cũng gửi gắm những bài học quý giá: anh em nên biết đoàn kết, yêu thương nhau từ thuở nằm nôi; biết quý trọng công sức những ngày gian khổ; biết nuôi ý chí mà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua đây, tác giả một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ những con người Việt Nam và chất “tình” có ở khắp mọi nơi trên đất nước này.

Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ nét tư tưởng Đất nước của nhân dân qua ba chiều cảm nhận: địa lí, lịch sử và văn hóa vô cùng tinh tế, sâu sắc.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.

Khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất nước

Đôi nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943. Quê quán: thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Năm 2000, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Phong cách thơ của ông có sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt Nam.

Tác phẩm chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng

Đôi nét về tác phẩm Đất nước

a. Hoàn cảnh ra đời

Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị – Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường dấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca.

b. Bố cục (2 phần)

Phần 1 (từ đầu đến “Làm nên đất nước muôn đời”): Đất nước bình dị, gần gũi được cảm nhận từ nhiều phương diện của đời sống

Phần 2 (còn lại): Tư tưởng đất nước của nhân dân

c. Giá trị nội dung

Đoạn trích thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa… Tư tưởng trọng tâm, bao trùm toàn bộ bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”

d. Giá trị nghệ thuật

Giọng thơ trữ tình, chính trị, cảm xúc sâu lắng, thiết tha

Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo

—————————–

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Bộ đề thi thử THPT Quốc Gia đạt 8 điểm môn Văn năm 2020
  • 20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
  • Cách làm bài văn nghị luận xã hội (Dạng tổng hợp)
  • Mở bài và kết bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các em Phân tích đoạn thơ Đất nước hay và chất. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.