Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Sóng” – Xuân Quỳnh
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Sóng” – Xuân Quỳnh là bài viết bao gồm dàn ý và văn mẫu hay do TaiLieuViet biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu học tập môn Ngữ văn 11. Mời các bạn tham khảo!
Bản quyền tài liệu thuộc về TaiLieuViet, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.
Đố ai cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng hương nhè nhẹ gió hiu hiu
(Xuân Diệu)
Hai tiếng “Tình yêu” nghe đơn giản là thế nhưng cũng là hai tiếng khó lí giải nhất cõi đời. Thứ tình cảm tự nhiên, dung dị mà nồng cháy ấy đã đi vào trong văn chương, làm trái tim con người rung lên những nhịp đập thổn thức biết bao lần. Chàng thi sĩ Xuân Diệu đã định nghĩa tình yêu bằng “một buổi chiều” có “nắng nhạt” và “gió hiu hiu”. Với Puskin, đó là “Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai”. Và đến với Xuân Quỳnh, ta sẽ bắt gặp một tình yêu có diện mạo đằm thắm, nữ tính, dạt dào như những cơn sóng biển trong thi phẩm “Sóng”.
Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Sinh ra và lớn lên trong thời kì khó khăn của đất nước, lại có hoàn cảnh gia đình đặc biệt nên Xuân Quỳnh luôn giàu lòng trắc ẩn, tràn đầy niềm khao khát yêu, khao khát được cống hiến. Sức mạnh của thơ chị chính là sức mạnh của sự nữ tính, của một trái tim rất đỗi “phụ nữ”. Mọi biến động của đời sống, mọi sự kiện xảy đến trong đời đều được chị ghi chép lại bằng những vần thơ da diết. Xuân Quỳnh sáng tác cả thơ và văn xuôi, trong và sau kháng chiến chống Mĩ. Chất trữ tình đằm thắm thấm nhuần trong thơ chị kể cả khi chị viết về chiến tranh. Hiện thực đất nước những năm kháng chiến gian lao cũng từng trở thành nguồn cảm hứng cho những sáng tác của Xuân Quỳnh như biết bao cây bút cùng thời:
Lời mẹ ru không chỉ ngọt ngào
“Cái bống ngủ ngon, cánh cò bay mải…”
Bởi khi bay có cánh cò đã gãy
Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giật mình
(Khi con ra đời)
Chiến hào ngước nhìn lên
Chuối vườn ai vừa trổ
Một giàn mướp hoa vàng
Một đầm sen trước ngõ.
(Chiến hào)
Tuy nhiên, chỉ khi được sống trọn với những xúc cảm đa đoan về tình yêu và gia đình thì thơ Xuân Quỳnh mới thực sự được thăng hoa. Trái tim nhạy cảm ấy đã xao xuyến trước một bông hoa cúc xanh trong đầm lầy tuổi thơ, bâng khuâng khi đợi mùa ngâu hoa nở, thấm thía về sự trôi chảy của thời gian,… Thơ chị không gọt đẽo cầu kì mà tự nhiên, chân thành, sâu sắc như chính trái tim của người phụ nữ từng trải. “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời … Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở” (Chu Văn Sơn).
Bài thơ “Sóng” được ra đời vào tháng 12 năm 1967 tại bãi biển Diêm Điền. Tác phẩm là lời tự giãi bày của một tâm hồn luôn khao khát yêu và được yêu đến tận cùng, trăn trở âu lo về mọi bình diện của tình yêu. Sôi nổi, trẻ trung, rạo rực mà vẫn ý nhị, dịu dàng – bài thơ đã trở thành một trong những sáng tác hay nhất viết về tình yêu của người phụ nữ, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật Xuân Quỳnh.
Lấy sóng để biểu đạt tình yêu đâu phải là điều mới lạ trong thi ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu từng lấy cái ào ạt của sóng để diễn tả men say ái tình trong đôi mắt những người đang yêu:
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Nữ sĩ Phan Thị Thanh Nhàn lại miêu tả sóng gắn với những cảm thức về tình yêu đổ vỡ:
Gió lạnh đến tê người
Sóng như là chạy trốn
Biển mịt mù vắng tanh
Không cánh buồm không bến
Em chìa tay hứng mưa
Nghe lòng mình mặn chát
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bốn câu thơ vừa tả thực những chuyển động của sóng, vừa bộc lộ những cung bậc của tình yêu. Những con sóng ngoài biển khơi có lúc cuộn trào dữ dội, tạo nên những âm thanh ồn ã khiến ta phải bất ngờ nhưng bỗng chốc lại âm thầm, lặng lẽ xô vào bờ cát, âu yếm dấu chân con người. Những đối cực của thiên nhiên thật thú vị và khó nắm bắt, giống hệt dòng nội tâm của một người đang yêu. Trái tim ta khi thì nồng nàn, mãnh liệt, muốn vượt lên bất chấp tất cả mọi rào cản nhưng có khi lại mềm yếu, khao khát sự bình yên dung dị. Xuân Quỳnh hết sức tinh tế khi sử dụng cặp từ đối lập “Dữ dội” – “dịu êm”, “Ồn ào” – “lặng lẽ” cùng quan hệ từ “và”. Hai thái cực của sóng tưởng như mâu thuẫn nhưng lại cùng hòa hợp trong một bản thể, làm nên diện mạo phong phú của tình yêu. Các – mác đã gọi đây là “Sự thống nhất của các mặt đối lập”, những điểm ngược dấu cùng tồn tại và bổ sung lẫn nhau. Tuy nhiên, con sóng của Xuân Quỳnh vẫn là một con sóng được nhìn bằng nhãn quan của một người phụ nữ nên cuối cùng vẫn thiên về phần “dịu êm” và “lặng lẽ”. Điều này khác với con sóng đầy nam tính, khát khao chiếm hữu trong thơ Xuân Diệu:
Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm
Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, nhà thơ nêu ra hệ quả của sự đối nghịch. Bởi sóng “dữ dội”, chân thực đến tận cùng với từng cảm xúc và ước ao sự bình yên nên sóng không chịu khuôn mình vào dòng chảy nhỏ bé của sông. Nếu sông không “hiểu” được sóng, ngọn sóng ắt sẽ từ giã không gian quen thuộc, “tìm ra tận bể” để thỏa sức vẫy vùng. Điều này quả thực rất đúng với những người phụ nữ khi yêu. Sự nhảy cảm, yếu mềm trong bản năng phụ nữ luôn khiến họ hướng đến những điều gần gũi, yên bình. Tuy nhiên, không vì thế mà họ cam chịu sống dưới mái nhà của những cảm xúc quẩn quanh, giả dối và cũ kĩ. Chính niềm khao khát yêu, khát vọng tự do sẽ chắp cánh cho người phụ nữ mạnh mẽ đối diện với những khó khăn, cách trở để tìm ra tình yêu đích thực của mình. Trên con đường đi tìm “chân hạnh phúc”, ta đâu thể đại khái và qua loa! Tâm hồn và quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh rất phóng khoáng, cao cả và thực tế, cho thấy vẻ đẹp mới mẻ của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Quả thực, “Quỳnh đã không thể tương đối được khi định vị cái gọi là HẠNH PHÚC” (Nguyễn Thị Minh Thái).
Khổ thơ thứ hai, con sóng được miêu tả trong chiều kích vô cùng của thời gian, từ đó nhà thơ cho thấy sức sống trường tồn của tình yêu trong đời sống nhân loại:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
“ngày xưa” và “ngày sau” là hai khoảng thời gian đối lập, chỉ quá khứ và tương lai. Cụm từ “vẫn thế” đã khẳng định quy luật bất biến rằng dẫu thời gian có trôi qua, vạn vật có đổi thay nhưng những con sóng vẫn ngày đêm miệt mài, khi “Ồn ào”, khi “lặng lẽ” như thế. Định luật ấy không chỉ đúng với tự nhiên mà còn đúng với con người. Dù trước hay sau, ở thời đại nào, khát vọng tình yêu vẫn luôn là điều tự nhiên, bất biến trong trái tim con người. Tuổi của tình yêu, của trái tim có thể đi ngược với khoảng thời gian vật lí. Chỉ cần va chạm với tình yêu, dù là “tuổi hai mươi” hay “khi tóc bạc”, trái tim ta vẫn sẽ ngân lên những nhịp đập bồi hồi, tươi trẻ. Yêu và làm thơ đã trở thành lẽ sống của cuộc đời nữ sĩ. Xuân Quỳnh đã viết về sức mạnh kì diệu của tình yêu trong “Thơ viết cho mình và những người con gái khác”:
Em yêu anh, yêu anh như điên
Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý tứ
Trán em bớt dô ra, bàn tay không vụng nữa
Tay này đây, em may áo cho anh
Bàn sẽ cắm hoa, tường sẽ treo tranh
Em sẽ làm theo những điều anh mơ ước
Không ngừng soi chiếu vào những cơn sóng biển dập dìu để khám phá chính mình, nhà thơ đã đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của sóng và cũng là của tình yêu:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Khổ thơ thứ ba gợi ra trong tâm trí người đọc hình ảnh người con gái nhỏ bé đang đứng trước biển khơi rộng lớn với lớp lớp sóng trào. Đối mặt với sự mênh mông, rợn ngợp của tự nhiên, con người bao giờ cũng nảy sinh những suy tư về bản thân, cuộc sống. Xuân Quỳnh đã “nghĩ về anh, em”, về tình yêu đôi lứa trên thế gian và tự hỏi không biết những con sóng kia đến từ nơi đâu mà dạt dào đến thế. Và còn tình yêu? Tình yêu từ đâu tới mà mãnh liệt và cháy bỏng khôn cùng? Điệp ngữ “Em nghĩ” được lặp lại hai lần thể hiện những suy tư, trăn trở xuất hiện liên tiếp trong tâm trạng nhà thơ. Thế giới tự nhiên đã thực sự “khúc xạ” tâm hồn đa đoan của Xuân Quỳnh, trở thành nơi để thi sĩ gửi gắm tâm tư và bộc bạch những trăn trở.
Khổ thơ thứ tư dường như đã trả lời cho câu hỏi của nhà thơ: “Sóng bắt đầu từ gió”. Xuân Quỳnh lại một lần nữa dựa vào sự vận động của tự nhiên để lí giải tình cảm. Gió từ khơi xa thổi vào mặt biển, tạo nên những con sóng trập trùng. Ngày gió yên, biển lặng. Ngày gió gào, biển dữ. Thế nhưng, sự tò mò đã khiến nhà thơ muốn truy vấn đến tận cùng, tiếp tục đặt ra câu hỏi: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Thế rồi, dường như thua cuộc trước sự diệu kì của tạo hóa, người con gái đành bất lực thú nhận: “Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau”. Câu thơ như một tiếng cười trừ vừa dễ thương lại vừa nữ tính. Tự nhiên và bí ẩn – ấy chính là gió trời và cũng là tình yêu đôi lứa. Ta làm sao có thể cài đặt trái tim như một chiếc đồng hồ dây cót để đợi chờ gió thổi hay đánh thức yêu thương! Sẽ thật phũ phàng và đau đớn làm sao nếu “Bài thơ nói về trái tim anh lại viết bằng bộ óc”. Cô gái đã nhận ra chẳng có điểm xuất phát và biên giới cuối cùng cho tình cảm. Ta chỉ biết rằng mình đã yêu khi đã thực sự sống trọn trong nó rồi:
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim em đâu lỡ hẹn bao giờ
Một trong những nét hấp dẫn nhất của tình yêu chính là nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ xuất hiện trong tâm tưởng mà còn biểu hiện ngay trên khuôn mặt, ánh mắt, cử chỉ của kẻ đang yêu. Khổ thơ thứ năm có hình thức đặc biệt, được kéo dài hơn với sáu câu thơ, diễn tả nỗi nhớ da diết và đằm sâu trong cõi lòng người con gái:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Không gian biển cả ngày càng được mở ra đa chiều, rộng lớn. Điệp từ “Con sóng” được lặp lại ba lần trong ba câu thơ gợi liên tưởng đến hình ảnh những đợt sóng liên tiếp cuồn cuộn dưới lòng biển sâu rồi lũ lượt xô vào bờ giống một con người đang sống trọn trong hạnh phúc và nhớ nhung. Các cặp từ đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, “ngày” – “đêm” diễn tả nỗi nhớ thường trực, đeo bám con người đến mức “không ngủ được”. Từ cảm thán “Ôi” xuất hiện giữa dòng thơ cho thấy nỗi nhớ mạnh mẽ đến mức không thể che giấu mà buộc phải thốt lên thành lời. Sóng thao thức với đại dương cũng như em luôn nhung nhớ, khát khao thấu hiểu và yêu thương anh vậy! Nỗi nhớ được thể hiện qua hình tượng sóng thật gợi cảm và tràn đầy nữ tính. Em là sóng. Sóng là em. Nhưng có lẽ, hóa thân vào sóng vẫn chưa thể diễn tả hết sự nồng nàn của tình cảm nên cuối cùng, cô gái đã tách ra, trực tiếp thổ lộ: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ như một sinh thể, có linh hồn riêng, bước vào cả trong giấc mơ của con người, bung tỏa khỏi giới hạn của không gian và thời gian. “mơ” và “thức” vốn là hai trạng thái đối lập, nay được đặt cạnh nhau, cho thấy lực tác động kì diệu của tình yêu đến con người. Hơn hết, hành động “nhớ” và “thức” không chỉ là biểu hiện của “yêu” mà còn cho thấy sự lo lắng, quan tâm cùng vô vàn dự cảm ập đến trong cõi lòng.
Nỗi nhớ khi hai người yêu nhau phải xa nhau thường đi liền với biết bao lo âu, mặc cảm. Ai cũng sợ tình yêu của mình trở thành “thuyền” và “bến” trong câu ca dao xưa:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Chính vì thế, khổ thơ tiếp theo là lời khẳng định tình yêu son sắt, thủy chung bất chấp mọi rào cản:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.
Tác giả lại một lần nữa sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để thể hiện tâm trạng. “Bắc” – “Nam” chỉ hai vị trí địa lí xa xôi, cách trở. “xuôi” – “ngược” là sự vận động trái chiều. Điệp từ “Dẫu” được lặp lại hai lần như khẳng định sức mạnh của tình yêu chân chính. Lời thơ ban đầu rất dịu dàng, đằm thắm, đến đây bỗng tràn trề niềm quyết tâm mạnh mẽ. Phải chăng, khi ta yêu nhau, trái tim luôn hướng về nhau thì mọi phương trời dù ở đâu cũng chẳng còn quan trọng nữa. Nơi nào có anh và em, nơi ấy trở thành duy nhất. Anh chính là bến bờ hy vọng, là niềm mong đợi tuyệt vời và cao cả nhất của em! Không cần ước lệ hay ẩn dụ, tình yêu được bộc lộ một cách táo bạo, quyết liệt, chân thành. Trái tim của Xuân Quỳnh quả thực là một trái tim quả cảm, dám yêu, dám nhớ, dám chờ, thậm chí dám trải qua cả sự tổn thương. Chị đã chọn cho mình một cách yêu và giữ gìn tình yêu thật đáng trân quý:
Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ
Lấy thời gian đan thành áo mong chờ
Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở…
Giữa con người văn chương và con người đời thường của một tác giả thường có những khoảng cách nhất định. Tuy nhiên, với Xuân Quỳnh, thơ văn của chị vẫn chính là chị như vốn có. Có bao nhiêu tâm tư, chị đều gửi gắm hết vào trang thơ. Những bài thơ của chị, dù ở khoảng thời gian nào, vẫn luôn lấp lánh niềm tin vào tình yêu, hạnh phúc:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Ba từ “Ở ngoài kia” đem đến hình dung cô gái đang hướng của mình về khơi xa, nơi trăm ngàn con sóng không biết mỏi đang vượt qua giới hạn để chạm được vào bờ, ôm ấp nỗi yêu thương. Câu chuyện ấy của biển cả cũng là câu chuyện miên viễn của tình yêu con người. Những người yêu nhau bao giờ cũng sẽ tìm đến nhau, luôn luôn là thế.Hình tượng sóng bỗng sáng ngời lên vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ với những khao khát về tình yêu chung thủy và mái ấm gia đình hạnh phúc. Nhưng không dừng lại ở đó, là một người phụ nữ nhạy cảm, ở Xuân Quỳnh còn tồn tại một chút chạnh lòng nghĩ đến những cách trở trong tình yêu:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Ở khổ thơ thứ tám, thời gian và không gian được đặt trong thế đối lập. “Cuộc đời” vốn ngắn ngủi, “năm tháng” lại quá dài. Biển cả dẫu rộng lớn mênh mang cũng chẳng đủ sức níu giữ đám mây bay về phía chân trời. Các từ “tuy” – “vẫn”, “dẫu” – “vẫn” như tiếng thở dài buồn bã của nhà thơ trước những thực tế chẳng thể cải tạo. Xuân Quỳnh cũng sợ hãi sự trôi chảy của thời gian, sự nguội lạnh của lòng người, sợ cái mai một của tình yêu bởi suy cho cùng, con người cũng chỉ là một thực thể hữu hạn trước sức tàn phá khốc liệt của thế gian. Không ít lần những vần thơ chị nặng trĩu nỗi âu lo:
Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết lời nào giả dối với lời yêu…
Những nghịch lí của cuộc đời khiến con người đau khổ biết bao! Khát khao yêu thương và hạnh phúc là bất tận nhưng nhan sắc, tuổi xuân và sinh mệnh lại vô cùng ngắn ngủi. Nhất là ở những con người từng trải qua nhiều biến cố trong đời, điều này lại càng được nhận thức rõ rệt. Tình yêu có thể khiến người ta đẹp lên, đôi tay bớt vụng, cái trán bớt dô nhưng cũng có thể hủy hoại con người. Nếu ta không yêu, không có niềm hạnh phúc vô bờ cũng đồng nghĩa với việc ta không biết tổn thương. Đã chấp nhận sống hết mình vì tình yêu cũng là chấp nhận trái tim có thể tan nát vì tình. Ta lo lắng tình yêu của mình chẳng bì được với sức mạnh của thời gian, sợ hãi khi người ta yêu chẳng hiểu cho tình yêu ấy:
Ta yêu người con trai không phải vì mình
Mà họ yêu ta vì họ yêu chính họ
Được yêu hai lần, họ cao lên một bậc
Ta không được yêu cảm thấy thấp dần đi
Vì chính ta cũng chẳng yêu ta…
Đến đây, tưởng như bài thơ sẽ kết thúc với một nốt trầm bi lụy. Khúc ca dạt dào về tình yêu và biển lớn sẽ hóa thành bản nhạc buồn về con người, năm tháng. Thế nhưng, “Trái tim hoàn thiện nhất chính là trái tim có nhiều mảnh vá”, Xuân Quỳnh đã thể hiện sự kiên định với tình yêu của mình cùng khát vọng bất tử để yêu và được yêu trọn vẹn:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Đến đây, “Em” và “Sóng” lại cùng hòa nhập, quấn quýt vào nhau. “Làm sao được tan ra” là một câu hỏi tu từ được dùng để bộc lộ cảm xúc. Cụm từ “tan ra” toàn thanh bằng rất nhẹ nhàng nhưng cũng cho thấy khao khát cháy bỏng được hòa mình vào tình yêu của Xuân Quỳnh. Những từ “biển lớn”, “ngàn năm” là những khái niệm không gian, thời gian rộng lớn. Đại dương tình yêu của nhân loại vô cùng rộng lớn. Nhà thơ mong muốn được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để tận hưởng và dâng hiến hết mình cho tình yêu chung của nhân loại. Chỉ khi sóng còn vỗ, biển mới còn xao động. Chỉ khi con người hi sinh, tình yêu mới còn tồn tại, chiến thắng được sức mạnh của thời gian “Để ngàn năm còn vỗ”. Đây là quan niệm tình yêu xuất phát từ truyền thống nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại.
Như vây, qua hình tượng trung tâm là “Sóng” và “Em”, tác phẩm đã khắc họa những cung bậc của con người trong tình yêu, đem đến những triết khí sâu sắc về tình yêu và cuộc sống, cho ta thấy rõ vẻ đẹp nữ tính và khát khao hạnh phúc ở hồn thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ truyền thống, ngôn ngữ tinh tế, nhiều cặp từ đối lập, các tính từ giàu sắc thái biểu cảm, hệ thống điệp ngữ cùng giọng điệu kết hợp giữa sôi nổi, mạnh mẽ với nhẹ nhàng, sâu lắng.
“Sóng” xứng đáng là lời tuyên ngôn ý nhị, tinh tế, chân thành của người con gái về tình yêu. Chừng nào trên thế gian vẫn còn những trái tim trẻ bồi hồi vì tình yêu, chừng ấy những con sóng trong thơ tình của Xuân Quỳnh vẫn mãi dào dạt…
————————————————–
Ngoài bài viết trên, mời các độc giả của TaiLieuViet tham khảo thêm các bài viết hay và bổ ích khác tại Ngữ văn lớp 11. Chúc các bạn học tập thật tốt!
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)