Mục Lục
TogglePhân tích “Cải ơi!” – Nguyễn Ngọc Tư
Phân tích “Cải ơi!” – Nguyễn Ngọc Tư là bài văn mẫu hay, mới nhất do TaiLieuViet biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu để học tốt Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
Bản quyền tài liệu thuộc về TaiLieuViet, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.
I. Dàn ý Phân tích “Cải ơi!” – Nguyễn Ngọc Tư
A. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm
B. Thân bài:
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:
a. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
– Sinh năm 1976, quê ở Cà Mau.
– Thường viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn.
– Là nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại.
– Một số tác phẩm nổi tiếng: “Cánh đồng bất tận”, “Gáy người thì lạnh”
b. Tác phẩm:
– “Cải ơi” là truyện ngắn nằm trong tập truyện “Cánh đồng bất tận” (2005).
– Bố cục:
+ Đoạn 1: Từ đầu cho đến “…dứt khoát tìm được con Cải về”.
+ Đoạn 2: Tiếp theo cho đến “…rủ đi ăn hủ tiếu”.
+ Đoạn 3: Tiếp cho đến “…Chết lặng”.
+ Đoạn 4: Còn lại.
2. Phân tích tác phẩm:
a. Nhân vật ông Năm Nhỏ:
– Xuất thân là người nông dân ở làng Cỏ Cháy.
– Hoàn cảnh đưa đẩy ông đến ngã ba Sương là sự ra đi của Cải.
– Số phận lưu lạc, đau khổ cùng phẩm chất được thể hiện qua hành trình tìm kiếm con:
+ Ròng rã tìm kiếm con mười hai năm, rơi vào những tình huống ngặt nghèo.
+ Giàu tình yêu thương con, giàu lòng tự trọng, không từ bỏ mọi cơ hội để tìm con.
+ Có lòng bao dung, vị tha, thương yêu những người đồng cảnh ngộ.
b. Nhân vật Thàn:
– Có ước mơ, hoài bão
– Có tình thương như ruột thịt, đồng cảm với ông Năm và tình yêu chân thành với Diễm Thương.
– Cuộc sống lưu lạc vì không thực hiện được ước mơ.
c. Nhân vật Diễm Thương:
– Có quá khứ đau buồn, bị cha mẹ bỏ rơi.
– Ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm.
– Nội dung:
+ Đồng cảm, xót thương cho số phận đáng thương của những con người lưu lạc.
+ Ca ngợi những vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của con người.
+ Đề ra những trăn trở, suy ngẫm về cách ứng xử của con người trong đời sống.
– Nghệ thuật:
+ Trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại.
+ Ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri.
+ Hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật.
+ Nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
+ Ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ miền Nam.
C. Kết bài.
II. Văn mẫu Phân tích “Cải ơi!” – Nguyễn Ngọc Tư
Khi bàn về “Nỗi sợ đối với nhà văn”, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc bạch: “Riêng tôi tin vào duyên…Không phải cứ tích lũy mày mò tháng ngày mà thành, văn chương không tùy thuộc vào sự thuần thục, cũng như ta biết không phải viết nhiều, đều đặn thì là nhà văn”. Đúng vậy,giữa tác phẩm văn học với người đọc bao giờ cũng tồn tại thứ duyên ngầm khó ước đoán, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. “Cải ơi” chính là một tác phẩm có cái duyên ngầm ấy. Vẫn lối viết giản dị, chân xác, bộc trực của con người phương Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc những day dứt khôn nguôi về số phận của những con người lưu lạc.
Truyện ngắn “Cải ơi!” còn có tên là “Ơi Cải về đâu”, nằm trong tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” sáng tác năm 2005. Tác phẩm kể về cuộc hành trình tìm con ròng rã của ông Năm Nhỏ. Cải – đứa con riêng của vợ với người chồng cũ, bỏ nhà ra đi vì làm mất cặp trâu, sợ bị đòn. Từ ngày ấy, cuộc sống của ông Năm gặp vô vàn bất hạnh. Ông hứng chịu sự dòm ngó và khinh miệt từ làng xóm cùng sự lạnh lùng, hắt hủi từ người vợ. Ông quyết định rời quê hương, ra đi tìm con. Theo chân chuyến hành trình khắc khoải của người cha ấy, ta còn bắt gặp những con người có thân phận lưu lạc khác như Thàn, Diễm Thương.
Tác phẩm có thể được chia thành bốn phần. Trong đó, phần một kéo dài từ đầu cho đến “tìm được con Cải về”, phần hai từ tiếp theo cho đến “rủ đi ăn hủ tiếu”. Phần ba nối tiếp cho đến “Chết lặng” và phần bốn là toàn bộ nội dung còn lại. Nhan đề tác phẩm, bao gồm cả nhan đề cũ và mới đều bao gồm tiếng “Ơi” như một lời gọi. “Cải ơi” là tiếng gọi vừa yêu thương, nhung nhớ cũng vừa đau đớn, vô vọng của ông Năm Nhỏ suốt mười hai năm trời ròng rã tìm con. Nhan đề ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh éo le “Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương”. Các nhân vật hiện lên trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Người đọc sẽ tự hỏi tại sao một ông già lại cùng tham gia vào đoàn ca múa nhạc với một chàng trai trẻ? Điều gì đã khiến Thàn quyết định dẫn theo ông Năm Nhỏ về ngã ba Sương? Dường như, cuộc đời của mỗi con người đều chứa đựng nhiều uẩn khúc và những câu chuyện khuất lấp đó, nay lại tiếp tục ở nơi ở mới này. Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt cho nhân vật những cái tên giản dị, đậm màu sắc Tây Nam Bộ. Sáu Đèo, Út Vũ, Dậu, Sáo, Năm Nhỏ – tất cả đều là những cái tên gợi lên số phận đáng thương, nhỏ nhoi, cơ cực. Nhân vật Thàn có cái tên đặc biệt, gần giống với tài tử Hong Kong mà khuyết mất một chữ “h”, dường như đây là dấu hiệu cho thấy Thàn có một niềm đam mê nghệ thuật mãnh liệt nhưng vì “thiếu” chút gì đó mà không thể thành danh. Sau này, chính Thàn cũng ngậm ngùi số phận “lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn” của mình. Diễm Thương thì khác, cô có cái tên thật đẹp, vừa yêu kiều lại vừa trìu mến. Thế nhưng, trái ngược với cái tên, Diễm Thương lại có khuôn mặt “không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì, mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre”. Tên các địa danh như làng Cỏ Cháy, ngã ba Sương gợi liên tưởng đến những miền quê quanh năm nắng cháy, những con phố mịt mờ như vô định không biết đâu là điểm dừng.
Ba con người, ba mảnh đời héo hon ấy đã gặp gỡ, cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh và cũng là mưu cầu hạnh phúc. Cuộc đời và chính con người họ, không ai là “lành lặn”. Với lối kể giản dị, ngôi kể thứ ba cùng hệ thống điểm nhìn thay đổi linh hoạt, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả những đau đớn tột cùng, những những khát khao bình dị của những con người nhỏ bé.
Nhân vật chính trong truyện là ông Năm Nhỏ. Ông có tình yêu thương con vô bờ, tấm lòng nhân hậu hết mực,lòng tự trọng đáng quý và số phận bất hạnh, phải lưu lạc suốt mười hai năm. Để làm nổi bật những đặc điểm ấy ở ông Năm, tác giả đã đảo lộn trật tự các sự kiện trong truyện kể, lồng ghép giữa quá khứ và hiện tại, Ngay ở phần đầu là khung cảnh ông Năm sống với Thàn và Diễm Thương. Tối hôm ấy, Thàn đi chơi về, thấy ông Năm vẫn ngồi khọm rọm ngoài vách mùng hút thuốc. Thàn hồn nhiên nghĩ rằng ông Năm nhớ đoàn quá nên ngủ không được. Ông già lắc đầu, thở dài, cái tiếng thở dài “nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi”. Hóa ra, ông bần thần vì không biết làm thế nào để tìm ra con Cải. Quá khứ của ông lúc này hiện về trong dòng hồi tưởng. “Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại”. Ngày Cải đi, vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bà cho rằng ông ngược đãi, hà khắc với nó vì Cải là con với chồng trước. Ngày ngày, bà nhìn ông bằng con mắt chứa đầy hoài nghi, thù ghét. Không chỉ gia đình mà bà con làng xóm cũng quay lưng với ông. Người ta xầm xì, chỉ trỏ. Có ai quan tâm đến thực hư con nhỏ đã đi đâu hay đồng cảm với nỗi đau đứt ruột của người cha? Thói đời là thế, người ta nhảy bổ vào xâu xé kẻ “có tội” như con thiêu thân lao đến ánh đèn. Để thỏa mãn sự hiếu kì nhân danh lòng đức độ, có người còn dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng. Cũng có người “thẳng thắn”, “thông minh” hơn, biết tận dụng vụ việc mà bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Thậm chí, có kẻ giàu tưởng tượng và giàu luôn cả sự nhẫn tâm còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào. Người kể chuyện thể hiện thái độ thương xót, đồng cảm với ông Năm trước tình cảnh đau đớn, để ông bộc lộ cảm xúc của mình: “Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời)”. Khi con Cải đi rồi, ông đã ứa nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng như thể Cải vẫn còn ở nhà. Mất con, người cha hành động như một kẻ mất hồn. Lúc nào lòng ông cũng đau đáu vì nhớ con, lo lắng con lưu lạc nay đây mai đó, không biết sống chết ra sao. Những câu: “Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à?” như lời tự giãi bày, thanh minh của ông Năm Nhỏ. Ông nói với chính mình, nói với những người nghi oan cho ông và hơn hết, ông cũng muốn nhắn nhủ với Cải rằng ba nó thương nó lắm, hãy về nhà với ba má nó đi. Vì thế, ông quyết định khăn gói bỏ xứ ra đi, “bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về”. Ông Năm không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, không hiếm khi ta bắt gặp kiểu nhân vật lưu lạc như thế này. Ông Năm tha hương không phải vì mưu sinh mà như một sự tự lưu đày, trốn chạy và quên đi niềm đau dù nỗi đau ấy chẳng lúc nào nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng cứ thế tiếp tục. Sau những tháng ngày lênh đênh, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc. Ông chọn công việc ấy bởi lí do hết sức đáng thương. Ông thường mượn cái micro nói vài câu trước giờ diễn: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”, hi vọng đứa con bé bỏng của ông có thể xuất hiện trong đám khách hoặc nếu có người biết tin thì báo cho ông. Người làm cha chẳng từ bỏ một chút hi vọng nào, dù là nhỏ nhoi nhất, để tìm lại được con. Về sau, ông còn dồn hết tiền mua một cái nhà lụp xụp và xe kẹo kéo. Xe kẹo kéo có mục “nhắn tìm con” của ông nổi tiếng khắp các chợ cá, quán nhậu, ngã ba. Sự nỗ lực, kiên trì, tình yêu thương của ông thật đáng khâm phục. Ròng rã suốt chừng ấy thời gian, người cha này chưa lúc nào nguôi ngoai đi tội lỗi và niềm đau mất con. Sự trở về của Cải là điều duy nhất có khả năng giải thoát ông khỏi sự dày vò. Lạc lõng, nổi trôi thì đớn đau, khổ sở vô cùng nhưng nếu ông không đi khỏi Cỏ Cháy, chính niềm ân hận, tuyệt vọng cùng thái độ của những người xung quanh sẽ giết chết ông. “tiếng “Cải ơi !!!…” nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời”. Ông Năm chính là một cánh chim cô đơn đến tội nghiệp!
Sau khi hé lộ quá khứ của ông Năm và nguyên do khiến ông trụ lại ngã ba Sương, người kể chuyện lại quay trở về thực tại, tiếp tục hành trình tìm con của nhân vật này. Cải, đối với ông, trở thành niềm hạnh phúc xa xăm trong quá khứ, sự khao khát tuyệt vọng của hiện tại. Ông níu lấy những hi vọng mong manh về con bé như một người sắp rơi xuống vực tìm kiếm sợi dây. Chìm trong nỗi đau quá lâu, ông Năm như mất trí. Có lẽ, chỉ những người xung quanh là thảng hoặc nhận ra điều ấy. Diễm Thương đã lợi dụng sự “thèm” con của ông Năm để lấy tiền cá cược. Giây phút nghe thấy con nhỏ thảng thốt gọi “Ba !”, ông “đứng im sững, ngơ ngác giây lát”. Niềm hạnh phúc ập đến quá nhanh khiến đôi môi ông runrun, lập bập hỏi: “Cải phải hôn con?”. Nguyễn Ngọc Tư vẫn giữ nguyên những từ ngữ địa phương để diễn tả chân xác từng sắc thái cảm xúc của nhân vật. Người kể chuyện chú ý đến từng cử chỉ, biểu cảm của ông Năm: “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy”, “Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Những suy nghĩ thầm kín, khát khao bên trong của nhân vật cũng được người kể chuyện phơi bày: “Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó)”. Vẫn là ngôi kể thứ ba nhưng điểm nhìn đôi khi được thay đổi linh hoạt để nhân vật bày tỏ tâm trạng một cách chân thực. Và thế là, giọt nước mắt của ông lăn dài trên má. Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế… Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”. Ở đây, giọt nước mắt của ông Năm đã cho thấy niềm hạnh phúc đến nghẹn ngào, vỡ bung ra bởi bị kìm nén quá lâu. Giọt nước mắt đã gom hết biết bao tình cảm, nỗi đau, sự rối bời từ quá khứ đến hiện tại. Ông gặp nhỏ Diễm Thương hằng ngày kia mà? Cớ nào lại không biết mặt nhỏ? Có lẽ, chỉ cần nghe thấy tiếng “Ba!” là tâm trí ông bị lu mờ, chỉ còn biết nghĩ đến viễn cảnh đưa con về Cỏ Cháy.
Chi tiết ông muốn lên tivi để con thấy mình đã chứng tỏ ông Năm không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Trật tự kể chuyện lại được đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu con. Ông già lặng người đi, hồi tưởng lại những kỉ niệm dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang,chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều rồi cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già. Ông nhớ từ cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, đến mấy cục kẹo dừa. Ông tự nhủ: “Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên”. Thậm chí, có lần ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim, ông còn sướng rơn lăng xăng chạy lại ló mặt vào mấp máy câu “Cải ơi…”. Vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì.
Không chỉ hết lòng vì con gái, ông Năm Nhỏ còn là một người giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, biết yêu thương. Những tháng ngày sống ở căn nhà lụp xụp, kéo xe kẹo kéo đi khăp nơi, giữa ông và Thàn đã nảy sinh tình cảm nồng ấm như tình cha con ruột thịt. Họ đồng cảm, bảo bọc, chở che nhau. Thàn gọi ông Năm là “tía”, tối tối chui vào giường ông ngủ và ôm ông như ôm lấy người cha. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông chẳng trách cứ, mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết tin Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn làm đại diện họ nhà gái. Có lẽ, thấm thía nỗi đau của những người không nhà, không có nơi để về nên ông Năm đã thương cảm cho Thàn, Diễm Thương và coi họ như những đứa con của mình. Ông vẫn vui cho niềm vui của đôi trẻ mà không để nỗi đau của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Với tất cả những điều trên, người đọc luôn hi vọng ông Năm Nhỏ sẽ tìm lại được đứa con của mình, chấm dứt chuỗi ngày tha hương. Thế nhưng, câu chuyện lại có một cái kết vô cùng ám ảnh. Ông quyết định trở thành một tên trộm, mà ông lại trộm đôi trâu – thứ mà con gái ông đã làm mất. Dường như ông muốn chứng minh cho Cải thấy rằng đôi trâu ấy chẳng sá gì đâu! Khi bị đưa lên xã, ông chỉ chực chờ có đài truyền hình xuống quay hình “để dân người ta cảnh giác”. Người ta gọi ông là “Đạo tặc đãng trí”, nhiệt tình phỏng vấn các bên đương sự. Chỉ duy có câu nói của ông: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…” là bị cắt bỏ. Câu chuyện lưng chừng ở đó, liệu ông Năm có tìm được Cải hay tiếng gọi ấy vẫn lại vang vọng hoài trên ngã ba Sương (hay một con đường nào khác)?
Ngoài ông Năm Nhỏ thì Thàn và Diễm Thương cũng là những thân phận lưu lạc, bơ vơ đến đáng thương nhưng mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Thàn là một chàng trai có ước mơ, có đam mê và quyết sống trọn với đam mê ấy. Anh từng hi vọng sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng để khiến cha tự hào. Thàn cũng dành cho Diễm Thương một tình yêu chân thành, sự trân trọng và cảm thông đặc biệt. Dù tính tình Diễm Thương lạnh lùng, không cảm xúc, vì mưu sinh và những tổn thương quá khứ mà trở nên gai góc nhưng Thàn vẫn thương cô thật lòng. Với ông Năm Nhỏ, Thàn coi ông như người cha. Ngày đoàn hát giải tán, Thàn dẫn theo ông về chỗ Diễm Thương. Khi Diễm Thương lấy nỗi đau của ông Năm để cá cược, “Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu”. Cuối cùng, Diễm Thương không phải là nhân vật chính, hiện lên với những lời thoại thô lỗ, cộc cằn nhưng cũng để lại trong lòng người đọc những trăn trở. Vẻ ngoài lạnh lùng của cô được tạo nên bởi tuổi thơ cơ cực. Thái độ gay gắt, có phần khó ưa của Diễm Thương khi thấy ông Năm tìm con xuất phát từ sự tủi thân. Không giống như ông Năm, Diễm Thương không khóc mà chua xót nói: “Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm… Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu…” Cô cũng “lên tivi” như ông Năm để ba mẹ thấy mình. Nhưng định kiến, sự cô đơn đã vùi dập cô gái ấy quá nhiều, dường như cô quá quen chăng? Ngày bị gia đình Thàn phản đối, cô chỉ chào rồi bỏ về. Ẩn sau sự lạnh lùng, không ai hay biết cô đang nghĩ gì là một trái tim khao khát yêu thương đến vô cùng. Với các nhân vật phụ, tác giả cũng sử dụng lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại khi hồi tưởng lại những ngày Thàn ở nhà với người cha ruột, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời của nhân vật với lời người kể chuyện và khắc họa tâm lí nhân vật sâu sắc thông qua lời nói, cử chỉ, suy nghĩ.
Nhà văn đã sắp xếp trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại, ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri cùng hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật để miêu tả chính xác, khách quan diễn biến hành động và nội tâm của từng nhân vật. Từ đó, truyện khắc họa sâu sắc số phận cô đơn, nhỏ bé, đáng thương của những con người phải lưu lạc và bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hơn hết, tác phẩm còn đề ra cho ta một day dứt, trăn trở về cách đối nhân xử thế, về lòng bao dung trong cuộc đời.
Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư thực sự “không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người”.
III. Quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư
– “Tư viết về nhiều thứ lắm, phần vì sự thôi thúc thể hiện những cảm xúc dồn nén bên trong, phần vì buồn quá không biết nói chuyện cùng ai nên tìm cách trút vào trang viết chứ chưa dám nghĩ sẽ được đăng mà kiếm cơm bằng nhuận bút”.
– “Tôi hay nghĩ về sức mạnh của những giọt nước mắt. Chúng trong trẻo, giản dị nhưng lại gây rung cảm sâu sắc. Những tối, trên bản tin truyền hình, tôi nhìn thấy một em bé, hay một phụ nữ ở xứ sở xa xôi nào đó đang khóc, vì chiến tranh, vì bạo lực, hay vì thiên tai… và những giọt nước mắt lay động bất cứ ai nhìn thấy chúng, bất chấp biên giới, màu da, thể chế chính trị, ngôn ngữ hay những cách biệt văn hóa khác”.
– “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế, bởi văn học vẫn còn rào cản ngôn ngữ”.
– “Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt. Khi ấy, trong lòng các bạn, tôi không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người, như các bạn”.
—————————————-
Để đón đọc thêm những tài liệu học tập hữu ích khác, mời bạn đọc ghé thăm những địa chỉ như Tóm tắt tác phẩm lớp 11, Mở bài – Kết bài lớp 11. TaiLieuViet rất hân hạnh được trở thành người đồng hành cùng các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn gặt hái được kết quả cao!
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)