Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
TaiLieuViet.vn xin gửi tới bạn đọc bài viết để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết tổng hợp 7 mẫu bài phân tích và có bản audio cũng như video bài phân tích. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài phân tích tại đây.
- Phân tích tấn bi kịch của người tri thức nghèo trong xã hội cũ qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao
- Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Mục Lục
Toggle1. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 1
Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở bệnh viện. Ông vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã, xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này. Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến không khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa…
Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Không gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:
Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Tác giả sử dụng bút pháp quen thuộc với thơ ca truyền thống, gởi tâm trạng vào cảnh vật, từ ngoại cảnh mà thấy bức tranh tâm trạng, tâm hồn – sự trống vắng hụt hẫng, nỗi thương lớn lao khi mất Bác. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm làm cho chân dung nhân vật trữ tình hiện lên chân thực, tự nhiên. Dòng thơ tuôn chảy một cảm xúc dạt dào. Cảm xúc đau buồn tạm nguôi ngoai, nhà thơ nhắc đến chân dung lãnh tụ, những tâm sự vui buồn của Người khi còn sống:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.
…Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)
Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng quát:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông trọn kiếp người.
…Nâng niu tất cả chỉ quên mình.
Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ.
Biện pháp so sánh tấm lòng của Bác như lòng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dòng thơ vừa có cảm xúc dạt dào vừa cô đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.
Khi đã thấu hiểu lòng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu của sự sống.
Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim muông và thích được sống giữa thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngoài của sự hòa đồng với trời đất.
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lòng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:
Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác-Lê nin thế giới Người Hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!
Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại nên trí tuệ lắng kết một chân lí. Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Trước kia, trong bài thơ Sáng tháng Năm, Tố Hữu cũng đã thấy: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta / Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.
Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,
Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.
(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)
Cuối bài thơ là niềm tin vào sự trường tồn của lãnh tụ trong sự nghiệp cách mạng, trong sự trường tồn của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc cao cả làm bất tử một con người cao cả.
2. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 2
Ngày 2 – 9 – 1969, Hồ Chủ Tịch tạ thế. Cả một rừng thơ khóc Bác xuất hiện, trong đó nổi bật lên cây đại thụ Tố Hữu với bài thơ “Bác ơi!”.
Bốn khổ thơ đầu nói cái đau xót tột cùng của thi sĩ trước sự kiện Bác ra đi:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.
Trời mưa tầm tã cộng với nước mắt hàng triệu người khóc vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã làm cho cả không gian ướt lạnh, đau buồn. Khi Bác đi xa, Tố Hữu đang nằm điều trị ở bệnh viện. Nghe tin, nhà thơ hoảng hốt chạy về phủ Chủ tịch, nơi nhà sàn của Người:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Từ “chạy” được dùng rất tài, nói lên sự nóng gan nóng ruột của người con khi nghe tin cha mất.
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Ta thấy tác giả rất ý tứ cho nên “đến bên thang gác đứng nhìn lên” mà chưa vào nhà vội. Vì sao vậy? Vì đến thăm một người tạ thế là thăm vợ góa, con côi. Còn Bác không có gia đình thì xử lí như Tố Hữu là rất tinh tế. Nhà Bác hôm nay đã khác xưa rồi: Chuông không còn reo để báo tin với Người có khách đến. Đặc biệt câu thơ: “Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn”, bị cắt ra làm ba nhịp như muốn diễn tả nỗi nghẹn ngào của Tố Hữu.
Nhìn vườn cây Bác từng vun trồng, tác giả bâng khuâng:
Trái bưởi kia vàng, ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài!
Hai câu này làm cho một số độc giả thắc mắc: Chẳng lẽ Bác trồng cây chỉ cho một mình Bác thôi ư? Tôi đã có dịp hỏi nhà thơ Xuân Diệu; thi sĩ bảo: Ai lại đi thẩm định văn chương như vậy! Đây chỉ là một cách nói của thi ca để biểu lộ tình thương sâu sắc của con đối với Cha mà thôi. Cha chết không thương Cha hay sao?
Nhìn ao cá, nhà thơ bỗng tiếc nuối:
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay…
Bác hiện lên trong kí ức đẹp như một ông Tiên trong thần thoại. Đúng! Trong tâm trí nhà thơ cũng như trong tâm trí dân tộc ta, Bác là một “Ông tiên Mác – xít”.
Sau những ngày bàng hoàng đau xót, nhà thơ bình tâm lại, khắc họa hình tượng Bác. Tố Hữu đã viết nhiều bài thơ về Bác nhưng bài này hay hơn cả vì đây là thơ tổng kết một cuộc đời.
Hình ảnh bao trùm là: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế”. Đó là một trái tim giàu tình thương: “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.
Một trái tim thương nước, thương dân bao la, mênh mông. Từ “ôm” được dùng rất gợi cảm: ôm là nâng niu, che chở, giữ gìn.
Thương bao nhiêu thì đau bấy nhiêu:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Từ “đau” là lấy lại chữ dùng của Bác trong di chúc. Đau dân nước vì dân nước đang bị đế quốc xâm lược; đau năm châu vì có sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Chỉ con người vĩ đại mới có nỗi đau đớn lớn lao như thế.
Có một câu thơ tuyệt hay nói về cuộc đời của lãnh tụ:
Bác sống như trời đất của ta
Câu thơ giản dị mà hàm chứa một nội dung sâu sắc: Cuộc đời Bác đã hoà làm một với thiên nhiên, sẽ vĩnh hằng như thiên nhiên. Đó là nguồn gốc tinh thần lạc quan của Người:
Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình
Vì sao vậy? Vì giải phóng miền Nam là trung tâm của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nhiều người gặp Bác đều kể lại mỗi khi trò chuyện, thế nào Người cũng nhắc đến miền Nam. Trong phòng của Bác có treo bản đồ miền Nam về sự bố trí binh lực của địch. Có lần phát biểu trước Quốc hội, Người nói: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”.
Đạo đức của Bác thật cao khiết:
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Bác là vị lãnh tụ kiểu mới; khác với những người ưa sùng bái cá nhân. Vì tâm hồn Bác giàu quá (hồn muôn trượng) nên bề ngoài Bác rất giản dị (mong manh áo vải). Bác không cần tượng đồng vì nhân dân đã đúc cho Người hàng triệu tượng trong tim.
Trong ba khổ cuối, nhà thơ nói lên cảm nghĩ của nhân dân ta trước sự ra đi của Bác.
Trước hết là nhớ lời Di chúc:
Ra đi Bác dặn: “Còn non nước…”
Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều
Câu thơ nhắc lại lời Người:
“Còn non còn nước còn người
Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
Vậy thì thương Bác tức là phải làm theo lời Bác dặn, tập trung sức để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bác Hồ nay đã nhập vào một thế giới đặc biệt:
Mác-Lê Nin thế giới Người Hiền
Hiền ở đây là hiền minh, hiền triết – tức là những vĩ nhân có trí tuệ siêu việt có đạo đức cao cả. Chính những con người đó đã dẫn dắt lịch sử tiến lên không ngừng.
Kết thúc thi phẩm này, Tố Hữu có một câu thơ rất hay:
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn.
Yêu Bác làm theo tấm gương trong suốt như pha lê của Người; sẽ có sức mạnh tẩy sạch những vết mờ đục trong lòng ta, nâng chúng ta lên tầm cao mới. Chúng ta quyết biến đau thương thành sức mạnh:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Bài thơ “Bác ơi” là một điếu văn bi hùng. Lối thơ thất ngôn tạo nên một nhạc điệu trang trọng, cùng với hình ảnh thơ kì vĩ đã diễn đạt rất tài tình những cảm xúc cao đẹp của toàn thể dân tộc ta trong những ngày quốc tang năm 1969.
3. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 3
“Bác ơi!” được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. “Bác ơi!”được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.
Bài “Bác ơi!” là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ.
Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả vũ trụ bao la, mênh mông:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Câu thơ thứ hai, chữ “tuôn” được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau thương của dân tộc thật vô hạn.
Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ còn đi công tác xa. Nghe tin Bác mất, tác giả vội “chạy về”. Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng hoàng. Hai chữ “ướt lạnh” diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!
Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chuông chẳng còn reo nữa. Ánh đèn “tắt”, “rèm buông”, phòng của Bác ở và làm việc thì đã “lặng”. Sự sống như ngừng lại trong đau thương:
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Bác ra đi quá bất ngờ, đột ngột. Cả miền Nam, cả tiền tuyến lớn anh hùng đang trên đà chiến thắng. “Rước Bác vào thăm”… là ước mơ đẹp của đồng bào, chiến sĩ. Nhưng giờ đây còn đâu nữa khi Bác đã đi xa:
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!
Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông… thế là vắng bóng Bác.
Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá… những vật thân quen ấy của Bác được nhân hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ông đứng lặng, tự hỏi lòng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây bay…
Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi đời, niềm Nam,… đến vườn rau, ao cá, gốc dừa, ngôi nhà sàn,… đồng hiện một tâm trạng nghệ thuật, đó là nỗi đau đớn, tiếc thương đã và đang thấm sâu vào lòng người, lọng dân tộc. Đó là ngày Bác đi xa, ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc tang.
Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất lên, nghẹn ngào, biểu cảm:
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới công đức của con người vừa qua đời.
Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu ca ngợi lòng yêu nước thương dân, tình nhân ái bao la của Hồ Chí Minh. Đây là hai câu thơ trong bốn câu thơ hay nhất trong bài thơ “Bác ơi!”:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mông, của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lòng mẹ: “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ – Cho hôm nay và cho mai sau”. Đó là lòng Bác: Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng… Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.
Bác đã từng nói: “Miền Nam luôn trong tim tôi”, Thơ chúc Tết năm 1969, Bác đã viết: “Năm qua thắng lợi vẻ vang – Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to…”, Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới “Đánh Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!”, Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm sống lại tâm hồn Bác.
Điệp ngữ “vui” và các động từ: “nâng niu, quên” đã nói lên một cách sâu sắc tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh đầy chất thơ:
Bác vui như ánh buổi minh
Vui mỗi mầm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.
Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su…, “chẳng vàng son”,Nhiều người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hồ:
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại câu thơ trong trí nhớ nhiều người.
Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo đức và lối sống Hồ Chí Minh.
Ba khổ thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời ước nguyện.
Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lòng mình bơ vơ, đau đớn: “ôi Bác xế chiều – Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Bác đã đi xa, bước vào “thế giới Người Hiền”. Sự nghiệp cách mạng, đạo đức cách mạng của Bác mãi mãi là “Ánh hào quang thêm”, là tài sản tinh thần vô giá có tác dụng động viên, cổ vu đồng bào, chiến sĩ “cùng nhau tiến lên” với niềm tin sắt đá:
“Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này”.
(Di chúc)
Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời Bác dặn, quyết tâm vượt lên hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ khép lại bằng một hình so sánh mang tượng hình sông núi kì vĩ. Tố Hữu khóc Bác bằng một lời thề chiến đấu:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất, hay nhất. Hình ảnh Bác Hồ: “Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” đã in đậm trong nhiều trang thơ của Tố Hữu.
“Bác ơi!” là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.
4. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 4
Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác – Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời “điếu văn bi hùng” bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa..
Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài “điếu văn bi hùng” thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,… Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất “đời” và “trời” tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.
Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi – một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:
“Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”
Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,… tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ:
“Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay”
Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn).
Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng.
Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo ” muôn mối như lòng mẹ”, Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”, Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người “Một đời thanh bạch, chẳng vàng son”,…
Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ:
“Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau”
“Bác sống như trời đất của ta”,
Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ” và Bác còn “Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”, Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của “trời đất”, của “tự do” được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam.
Bác nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì… Tố Hữu đã so sánh:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như “nỗi nhớ nhà” và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như “nỗi mong cha”. Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.
Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,… Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: “tình thương”- “Bác thương các cụ già”, “Bác thương đàn cháu nhỏ”, “Bác thương đoàn dân công”,… Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.
Tác giả dùng hình tượng “áo vải” mong manh để nói về “một đời thanh bạch”, thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, “áo vải” mà “hồn muôn trượng”. Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình:
“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước..”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”.
Và thầm hứa với Bác:
“Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã “đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.
Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.
5. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 5
Viết về Bác Hồ, với Tố Hữu là xây dựng hình tượng con người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất, kết tinh phẩm chất dân tộc qua nhiều thời đại.
Con người có lí tưởng và lẽ sống cao cả: lí tưởng giải phóng dân tộc, lí tưởng độc lập tự do vì thế, lẽ sống của Bác là sống bằng tình thương, luôn lo cho dân nước
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu,
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…
Cách điệp ngữ dưới nhiều hình thức để chúng khắc sâu vào tâm khảm người đọc, người nghe. Lời điệp trong thơ Tố Hữu luôn xoáy vào các nốt nhạc chủ âm của tư tưởng và tâm hồn. Hai câu trên nói về nỗi đau, nỗi đau được chia cho “nỗi đau dân nước”, nỗi “năm châu”. Hai câu sau nói về nỗi lo, nỗi lo cũng được chia ra, lo “hôm nay” và lo “mai sau”. Nỗi đau, nỗi lo vừa là biểu hiện của lẽ sống, vừa là biểu hiện của tình thương.Tình thương ủa Bác được diễn tả bằng hình ảnh thơ có chứa sức gợi lớn lao:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”
Tình thương ấy gắn liền với tình yêu, ân nghĩa như song sinh. Bác Hồ yêu nhân dân bằng thứ tình cảm trong trẻo như không khí, trời xanh, ân nghĩa như cơm ăn, áo mặc, ấm cúng như máu mủ ruột rà.Bác sống như trời đất của ta:
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Hình ảnh ví von trong thơ Tố Hữu rất tiêu biểu cho tư duy thơ của ông. Ví von không làm cho sự vật, con người cụ thể hơn mà là khái quát hơn, cao hơn, trừu tượng hơn và bóng bẩy hơn. Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hòa bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người. Bác Hồ sống khiêm tốn, giản dị và hi sinh quên mình.
Nâng niu tất cả chỉ quên mình
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Cách lập ý biểu cảm trong những hình ảnh thơ này là phép tương phản. Sự tương phản đều xoáy vào sự đối lập của các ý thức xã hội. Tương phản trong đoạn thơ không chỉ xây dựng trên sự liên tưởng của các hình ảnh đối lập mà còn mang hình thức tư duy, lập luận, rõ ràng. Yếu tố lôgíc nổi lên, nằm cùng dãy với yếu tố hình tượng làm câu thơ mang tính chất hùng biện mạnh mẽ.
Tương phản thứ nhất: Nâng niu tất cả/ chỉ quên mình là tương phản giữa số lượng tất cả/chỉ để thể hiện sự thống nhất trong tính cách, phẩm chất đạo đức của Bác: tình thương là cơ sở của lẽ sống, là thước đo phẩm giá, đạo đức con người.
Tương phản thứ hai: áo vải /hồn muôn trượng. Đó là tương phản về vật chất và tinh thần, biểu hiện của thanh và tục, cái cao cả và cái thấp hèn. Hình ảnh thơ trên đã biểu thị cái ưu thế tuyệt đối của tinh thần so với vật chất. Vật chất rất đơn sơ giản dị, tương phản với tâm hồn cao cả bất diệt, thể hiện một chất thơ vượt lên tồn tại vật chất, thể hiện sự khiêm tốn, giản dị trong vật chất, giá trị sống của con người Bác Hồ.
Tái hiện lại hình tượng Bác Hồ, Tố Hữu đã dựng lại chân dung tinh thần của Bác Hồ với quan niệm con người thiên nhiên, chân dung Bác chẳng những được tái hiện gắn bó làm một với cây cỏ, trời mây, sông núi Việt Nam, hơn thế Bác còn là hiện thân cho lẽ sống tự nhiên của trời đất Việt Nam: “Bác sống như trời đất của ta”. Tâm hồn Bác “mênh mông”, “ôm cả non sông mọi kiếp người”.
Tình cảm của Bác là thứ tình cảm tự nhiên của cha mẹ với con cái, tình cảm gia đình. Bác “lo muôn mối như lòng mẹ”, “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”, “Bác vui như ánh buổi bình minh”…Hình tượng Bác Hồ thật vĩ đại mà gần gũi với mỗi người dân Việt qua tiếng thơ Tố Hữu.
6. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 6
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
(Bác ơi)
Chiều ngày 2/9/1969, khi nghe tin Bác mất, Tố Hữu đang điều trị ở bệnh viện, vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn của Bác lặng lẽ dưới mưa. Trở về, Tố Hữu viết “suốt cả đêm ấy cho vơi nỗi buồn”. “Bác ơi” được viết ngay sau sự kiện đau thương của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc, tiếng tiếc thương và là bản hùng ca, ca ngợi nhân cách, công lao, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài thơ có mười ba khổ, đoạn phân tích là khổ thứ mười ca ngợi cuộc đời trong sáng, cao đẹp của Bác Hồ. Bác Hồ không còn nữa. Dân tộc ta mất đi một người Cha già, cách mạng Việt Nam mất đi một vị lãnh tụ. Đau thương nào lớn hơn? Tố Hữu với cái buồn đau vô hạn ấy đã thể hiện lòng vô cùng yêu quý Bác bằng những vần thơ khóc thương và ca ngợi. Suốt cuộc đời Bác, Bác dành tất cả tình thương cho nhân dân quên mình vì lí tưởng độc lập dân tộc. Tố Hữu đã đúc kết vào trong suy nghĩ của mình bao điều ông từng chiêm nghiệm về Người.
Mở đầu khổ thơ: “Bác để tình thương cho chúng con”, đó là một ý thơ được lấy từ một ý trong Di chúc của Bác: “cuối đời tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể đồng bào”. Câu thơ ca ngợi tình nhân ái bao la của lãnh tụ Hồ Chí Minh với toàn thể nhân dân.
Trái tim Người thật mênh mông, khiến cho Người không giây phút nào được thảnh thơi: lo dân, lo nước, thương nhân loại năm châu, thương mọi kiếp người nô lệ, thương Miền Nam còn trong tay giặc. Không phải chỉ thương suông mà thương đi liền với lo, lo cho tất cả lại lo riêng cho mỗi kiếp người cụ thể: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”.
Tình thương của Bác bao trùm cả không gian, thời gian “cho hôm nay và cho mai sau”, bao trùm cả thiên nhiên cây cỏ, chia sẻ đến “từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”. Suốt đời Bác thương nước, thương đời trong lúc thức và trong cả những cơn mơ. Nói về tình thương của Bác, Tố Hữu nói bằng giọng thơ thật giản dị và với cách xưng hô: “Bác”, “chúng con” đã thể hiện sự thân mật, gắn bó giữa nhân dân và lãnh tụ.
Sinh thời, tâm tư tình cảm của Người chỉ biết dành cho tất cả, lo cho tất cả, mà không nghĩ đến bản thân mình. Lúc ra đi vẫn bộ quần áo ka ki giản dị, không một tấm huy chương, huân chương trên ngực. Đúng là “một đời thanh bạch chẳng vàng son”. Câu thơ ca ngợi lối sống thanh bạch, nhân cách trong sáng của Bác. Tác giả dùng chữ “thanh bạch” đối lập với chữ “vàng son” đặt trong câu thơ nhằm đối lập giữa cuộc sống thật của Bác (người đứng đầu Đảng và Nhà nước XHCN) với cuộc sống xa hoa của một số bậc vua chúa phong kiến trước đây. Bác sống một cuộc sống thanh bạch, giản dị, từ chối mọi hư danh.
Đứng trước cái chết, ai cũng vậy dường như đều muốn trở thành nhà triết học. Những lúc ấy trong đầu óc thường nảy ra những ý nghĩ có tính chất tổng kết về một đời người, một kiếp người. Ta hiểu vì sao trong bài “Bác ơi” có thể tìm thấy những ý nghĩ khái quát sâu sắc của Tố Hữu về bản chất con người Bác. Và câu thơ trên là một chiêm nghiệm về Bác của Tố Hữu.
Tiếp theo câu “mong manh áo vải hồn muôn trượng” là câu thơ ca ngợi về lối sống giản dị khiêm nhường của Bác, đồng thời cũng đề cao sự vĩ đại cao đẹp trong tâm hồn Người. Ở Bác luôn có sự thống nhất, hài hoà giữa hai phẩm chất: bình thường mà vĩ đại, dung dị mà thiêng liêng. Để diễn tả điều đó, Tố Hữu đã dùng hai hình ảnh rất đạt: “áo vải” và “hồn muôn trượng” để diễn tả sự khẳng định.
Một con người luôn khiêm nhường mà luôn vĩ đại cao cả, từ lời nói đến hành động. Bác nói “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” và đã lo cái lo của nhân dân, cũng từng nhịn bữa góp gạo kháng chiến. Trước khi Người vội đi xa, Người còn muốn nghe những làn điệu dân ca mọi miền, trong đó có dân ca miền Trung – cái nôi làng Sen quê hương Bác mãi là tinh hoa văn hoá của dân tộc.
“Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” bằng nghệ thuật so sánh, tác giả khẳng định sự bất hủ của các giá trị tinh thần mà Bác để lại cho dân tộc. Ở đây có hình ảnh “tượng đồng phơi những lối mòn”, những bức tượng đồng nhằm lưu danh các vĩ nhân đặt tại các vườn hoa, khu kỉ niệm, nơi thường có nhiều người qua lại, chiêm ngưỡng. Bác Hồ của chúng ta như ẩn mình đi, rất khiêm nhường nhưng vẫn hơn “tượng đồng phơi những lối mòn”.
Lời tổng kết về một nhân vật vĩ đại như Bác Hồ không thể không bao hàm sự liên tưởng so sánh với những tên tuổi khác. Tác giả muốn đúc tượng đồng bia đá để trở thành bất tử. Sinh thời, Bác không thích tượng đồng bia đá, không nhận bất cứ huân huy chương nào. Nhưng “mong manh áo vải hồn muôn trượng”, Người sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, hơn những ai đó tượng đồng bia đá đúc mà không người viếng thăm để chúng phải “phơi” mặt bên “những lối mòn” vắng vẻ.
Tác giả đã thay mặt chúng ta dựng tượng đá Bác bằng thơ trong lòng mỗi người dân nước Việt. Chúng ta hứa nguyện xứng đáng với Bác, quyết tâm làm theo Di chúc của Bác, tiến bước theo con đường của Người.
7. Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em mẫu 7
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Trong dịp lễ quốc tang lãnh tụ vĩ đại, bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu được giới thiệu trên báo “Nhân dân”, sau này in trong tập thơ “Ra trận”. Bài thơ gồm có 52 câu thơ thất ngôn, chia đều thành 13 khổ thơ.
Bốn khổ đầu thể hiện nỗi đau thương bao trùm sông núi và lòng người. Sáu khổ thơ giữa ca ngợi công đức to lớn của Bác Hồ. Ba khổ thơ cuối nói lên nổi thương tiếc Người và nguyện thực hiện lời Bác dặn. Đây là khổ thơ thứ 7 nằm trong phần 2 bài thơ “Bác ơi!”:
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già”.
Đoạn thơ đã ca ngợi tầm vóc và tâm hồn cao cả, lớn lao; tình yêu thương mênh mông của Bác Hồ kính yêu. Mỗi câu thơ là một khám phá, một nét vẽ tuyệt đẹp tâm hồn của Bác. Giọng thơ trang trọng, trang nghiêm. Câu thơ thứ nhất là một so sánh, một lời ngợi ca khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta”.
“Trời đất của ta” là quê hương đất nước, là xứ sở thân yêu cửa ta vô cùng tươi đẹp, rộng lớn và vĩnh hằng. Cuộc đời “79 mùa xuân” và đời sống tinh thần của Bác được so sánh với “trời đất của ta” nhằm ca ngợi tầm vóc lớn lao và cao cả của Người.
Đó là sự nghiệp cách mạng cứu nước cứu dân, là lí tưởng và đạo đức cách mạng của Bác Hồ. Đó là một tâm hồn trong sáng, thanh cao, thoát khỏi mọi ràng buộc của danh lợi vươn tới cái vô cùng, cái cao cả. Là một chiến sĩ “Mong manh áo vải, hồn muôn trượng”. Là một con người Việt Nam mang cái tên đẹp “Ái Quốc” đã “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Lấy thiên nhiên để so sánh với con người là một cách nói quen thuộc của nhân dân ta. Ca ngợi công cha nghĩa mẹ, ca dao có câu:
“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông”.
Trong nhiều bài thơ viết về Bác Hồ, với lối nói ấy, Tố Hữu đã sáng tạo nên nhiều câu thơ tuyệt đẹp:
“Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”.
(Sáng tháng năm)
“Bác ơi!
Thôi đập rồi chăng? một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim!”.
(Theo chân Bác)
Ba câu thơ tiếp theo nói lên lẽ sống cao đẹp và trái tim yêu thương mênh mông của Hồ Chủ tịch hướng tới năm đối tượng đều vì cuộc sống con người. Bác “yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa”. Hai vế tiểu đối: “từng ngọn lúa // mỗi cành hoa” là biểu tượng vể mỗi nét đẹp của thiên nhiên, về mỗi thành quả của cuộc sống cần lao, về cái đẹp trong cuộc đời. Tất cả đều được Bác chăm chút, quan tâm.
Đó là cách nói ẩn dụ về tình yêu sâu sắc của Bác đối với Đất nước, nhân dân. Câu thơ thứ ba “Tự do cho mỗi đời nô lệ” nói lên lẽ sống cao đẹp của Người. Yêu tự do và chiến đấu cho tự do: “Tự do cho đồng bào tôi, tự do cho Tổ quốc tôi” là ý nguyện suốt đời của Bác.
Câu thơ của Tố Hữu đã nói lên sâu sắc cái gốc nhân ái, cái “ham muốn tột bực” của Người “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tự do là lí tưởng cao đẹp của Hồ Chủ tịch.
Trong “Tuyên ngôn độc lập”, Người đã viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Sự thật, Người không chỉ mang lại tự do cho dân tộc Việt Nam ta, mà còn góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành lại tự do cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì thế, câu thơ của Tố Hữu còn mang tầm khái quát: “Hồ Chí Minh là lương tâm của thời đại”.
Câu thơ cuối đoạn cũng có hai vế tiểu đối thể hiện tình yêu thương mênh mông của Bác Hồ hướng tới hai lứa tuổi cần được quan tâm đặc biệt trong xã hội là em thơ và các cụ già Việt Nam: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”.
Chữ “để” có nghĩa là “để giành cho”. Chữ “tặng” thể hiện một tấm lòng, một cách ứng xử vô cùng trân trọng quý mến. Với tuổi thơ Việt Nam, Bác đã dành cho tất cả tình thân yêu. San sẻ một ánh trăng thu sáng ngời. Nhiều cái hôn Bác dành cho các cháu gần xa. Các vị lão giả cao niên “xưa nay hiếm” chắc đều đã về cõi thiên thu, nhưng những chiếc áo lụa Bác Hồ tặng các cụ, vẫn mãi mãi là kỉ vật thiêng liêng mà con cháu gìn giữ đến muôn đời mai sau?
Cả ba câu thơ đều viết dưới hình thức liệt kê và đối xứng, tựa như những trang đời của Bác Hồ được dần mở rộng ra. Và mỗi chúng ta tưởng như đang mở rộng tầm mắt và tâm hồn chiếm lĩnh dần “hương nhân ái” Hồ Chí Minh, như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Đoá hoa sen mặt đất tỏa hương trời
Hương nhân ái thấm vào hồn ta mãi”.
Đoạn thơ trên đây của Tố Hữu không có hình tượng mĩ lệ, nhưng đọc lên, “tình thơ, hương thơ, hồn thơ” cứ quyện lấy lòng ta mãi. Tố Hữu đã dùng cách nói bình dị, hồn nhiên để thể hiện cái cao cả vĩ đại, đó là tâm hồn và nhân cách cao đẹp Hồ Chí Minh. Các vị ngữ được sử dụng: “sống”, “yêu”, “cho”, “tặng” – đã cho thấy ngòi bút nhuần nhị, tinh tế của Tố Hữu khi viết về Bác Hồ kính yêu. Đoạn thơ trên đã trở thành câu hát của mỗi chúng ta khi nhắc đến tên Người với niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn.
8. Audio Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em
9. Video Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em
Trên đây TaiLieuViet hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của em. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 12 được TaiLieuViet sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 12.
Bài tiếp theo: So sánh sự thức tỉnh của Mị và nhân vật Chí Phèo từ đó rút ra nhận xét về giá trị nhân đạo của hai tác giả
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)