Mục Lục
TogglePhân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” là bài viết bao gồm dàn ý và văn mẫu hay do TaiLieuViet biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu học tập môn Ngữ văn 11. Mời các bạn tham khảo!
Bản quyền tài liệu thuộc về TaiLieuViet, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.
Dàn ý Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”
I. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu về đoạn trích.
II. Thân bài:
1. Khái quát chung:
a. Tác giả
– Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
– Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có truyền thống văn hóa, văn học.
– Thời đại Nguyễn Du sống là thời đại có nhiều biến cố lịch sử như nhà Lê -Trịnh sụp đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ và Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,…
– Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực xã hội và có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
b. Tác phẩm
– Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450.
– Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều – Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải.
– Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động.
2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều – Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải
– Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh và công ơn của Từ Hải:
+ Kiều tự nhận mình là “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
+ Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều là điều không thể nào quên: “Chạm xương chép dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
– Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
+ Từ nhận mình là “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng và sức mạnh của bản thân.
+ Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều là điều tất yếu mà bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều là bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chỉ việc cũng việc nhà/Lọ là thâm tạ với là tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
– Từ Hải là vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan”.
– Từ Hải có khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của triều đình: “Thừa cơ trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
– Từ Hải còn có sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” và sự từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mải một lưỡi gươm/Những loài giả áo túi cơm sá gì!”.
3. Tổng kết:
– Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ Hải chính là đại diện cho ước mơ về công lí, sự bình đẳng và hạnh phúc ấm no của người dân.
+ Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
+ Xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đặc sắc.
III. Kết bài
Văn mẫu Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”
“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” – đó là lời nhận xét của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”, “quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường” do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt. Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải – ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.
“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh. Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể bằng những vật chất hữu hình. Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:
“Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ” trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”. Đây chính là quan niệm sống và lối ứng xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay biết chút tin tức gì về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại nhũng của con người văn võ song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam
Phong trần mải một lưỡi gươm
Những loài giả áo túi cơm sá gì
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà” cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,… khiến chân dung Từ Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém, hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước mơ của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian có chàng Thạch Sanh diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện ở người anh hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc. Nhân vật là đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân trong bất kì thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”
Có Nguyễn Du và chỉ một “Truyện Kiều””
(Nguyễn Bính)
————————————————–
Ngoài bài viết trên, mời các độc giả của TaiLieuViet tham khảo thêm các bài viết hay và bổ ích khác tại Ngữ văn lớp 11. Chúc các bạn học tập thật tốt!
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)