Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tài liệu văn mẫu lớp 12, tổng hợp dàn ý và bài văn tham khảo hay, giúp các bạn hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của sông Hương cũng như tài năng nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt môn Văn 12, ôn thi THPT Quốc gia môn Văn hiệu quả.
HOT: Đáp án Ngữ văn THPT Quốc gia 2023
TaiLieuViet.vn xin gửi tới bạn đọc bài phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bài viết dưới đây được TaiLieuViet.vn tổng hợp lại gồm 14 mẫu bài phân tích, ngoài ra còn có dàn ý bài phân tích và nghe đọc bài văn mẫu phân tích. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết bài phân tích dưới đây nhé.
Mục Lục
ToggleI. Nghe đọc Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
II. Dàn ý Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông
I. Mở bài:
- H.P.N.T là một trong những cây bút kí tiêu biểu của VHVN hiện đại. Với thể loại kí, H.P.N.T thể hiện trên từng trang văn vốn kiến thức uyên bác và cách viết tài hoa.
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí của H.P.N.T. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ Huế với những trang văn “vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú”.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh sáng tác
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” rút từ tập bút kí cùng tên, được xuất bản năm 1984. Tập bút kí gồm tám bài viết về nhiều đề tài. Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca ngợi đất nước, con người VN. Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà văn bộc lộ lòng gắn bó với quê hương đất nước và niềm tự hào về truyền thống, văn hóa, lịch sử của dân tộc. Đặc biệt là những bài viết về Huế.
- Trong số những bút kí đó, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí độc đáo về sông Hương. Dòng sông khơi gợi cảm hứng cho thơ ca, nhạc họa đã được H.P.N.T cảm nhận từ nhiều góc nhìn, đặc biệt là góc nhìn tâm linh, mang những nét riêng của “văn hóa Phú Xuân”.
2. Phân tích:
a. Chất trí tuệ của một cái tôi uyên bác: Viết về sông Hương, H.P.N.T thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt: văn hóa, lịch sử, địa lí, văn học nghệ thuật… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông Hương và thiên nhiên, con người Huế.
* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn địa lí:
– Hành trình của dòng sông: với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, bằng những bước chân rong ruổi, H.P.N.T đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương:
- Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”
- Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” -> Vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già ít ai biết đến.
- Chảy qua vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tẩm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” .
-> Sông Hương trở thành “người mẹ phù sa” mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
- Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu Tràng Tiền xa trông nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.
- Xuôi về Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa với màu xanh của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng… để gặp lại thành phố lần cuối”. Nhà văn dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” -> Biện pháp nhân hóa đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng sông và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và Huế ngày nay.
– Sông Hương và thiên nhiên Huế: Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà:
- Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông, những địa danh quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…-> Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dòng sông cũng hun đúc mọi sắc trời, văn hóa của vùng đất cố đô.
– Sông Hương và con người Huế:
- Thiên nhiên và dòng sông luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”.
- Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”
* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn lịch sử:
– Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di – gan man dại”, không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà trở thành chứng nhân của những biến thiên lịch sử. Nhà văn ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc” -> Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương là một bản anh hùng ca, đồng thời giữa đời thường sông Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”.
– H.P.N.T đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử:
- Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn phá của bom Mỹ… -> Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.
=> Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.
* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:
- Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên, mênh mang, xao xuyến…
- Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để H.P.N.T hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” -> Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.
– Sông Hương – dòng sông thi ca:
- H.P.N.T đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về xứ Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Hình ảnh thơ này cùng với câu chữ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng cho sự tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên Huế.
- Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…
=> Bằng vốn kiến văn phong phú, H.P.N.T đã lay động linh hồn của con sông mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả “Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”
b. Chất thơ của một ngòi bút tài hoa:
- Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ…” ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
- Chất thơ còn lấp lánh ở cách H.P.N.T điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.
- Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
III. Kết bài:
- Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của H.P.N.T tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn này.
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” không chỉ là một trong những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất của VHVN hiện đại.
III. Văn mẫu Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông
1. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 1
Sông Hương – xứ Huế đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường – một cây bút tài hoa lãng mạn, một người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.
Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.
Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội, mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của những hình ảnh ấn tượng như “ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy. Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết, sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi Kim Phụng. Nếu ta không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình.
Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích”. Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.
Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành đặc trưng của không gian Huế. Lạc đến những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.
Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông – Bắc” khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.
Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương xứ sở.
Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa, dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung, son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy” bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.
Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông “không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
2. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 2
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một văn, một nhà trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông cũng là một nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại, và đặc biệt thành công về thể loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, có được từ việc tổng hợp vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, tài hoa và mê đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông được viết tại Huế 1981.
Tác phẩm đã tái hiện lại vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên sông Hương, thể hiện sự gắn bó của con sông với chiều dài lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bày tỏ niềm tự hào tha thiết dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân thương và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ hướng thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này, sông Hương tựa như một bản trường ca vang dội của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội, hào hùng: khi thì rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc lại mãnh liệt vượt qua các ghềnh thác, khi thì cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, có lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ rực của hoa đỗ quyên rừng.
Với biện pháp nhân hoá, sông Hương được ví như cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn thích tự do và trong sáng. Theo nhà văn, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu về nguồn cội của sông Hương, người ta sẽ khó mà hiểu hết được các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ ra.
Như vậy, ở vùng thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp của một sức sống tràn đầy, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Khi sông Hương chảy về kinh thành Huế lại mang những vẻ đẹp khác đa dạng, nó gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng, thắm thiết và chung thuỷ của cố đô, thì sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn, tài hoa của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân của người con gái trong một câu chuyện tình yêu mang đậm màu cổ tích.
Đoạn văn miêu tả sông Hương khi nó chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ ra cái nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Người đọc sẽ khó cưỡng lại sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt những động từ diễn tả cái dòng chảy sống động đầy thơ mộng qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
Giữa cánh đồng Châu Hoá với đầy hoa dại, sông Hương như một “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi ấy thì cũng như công chúa được đánh thức bởi nụ hôn của hoàng tử, dòng sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát mãnh liệt của tuổi thanh xuân, được thể hiện qua sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ lên một hình cung thật tròn, ôm trọn lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi lại “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, cuối cùng là “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Vừa mạnh mẽ lại vừa dịu dàng, sông Hương có lúc thì “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi thì ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” khi nó đi qua những dãy đồi núi phía tây nam của thành phố và lại mang vẻ đẹp trầm mặc, sâu sắc khi qua bao lăng tẩm, đền đài của cố đô mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc lại bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung, vui tươi khi gặp được “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả xen kẽ được kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa trong đoạn văn trên đã làm nổi bật một dòng sông Hương đẹp tuyệt trần bởi bối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong kinh thành Huế, nó như đã tìm thấy chính mình khi gặp lại thành phố thân yêu, sông Hương trở lên “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông ấy “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo phía tây nam – đông bắc”, rồi lại “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến cho dòng sông mềm mại hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý, thân thương của mình, sông Hương cũng giống như sông Seine của Pari hay sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nó được nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo lên những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc thì sông Hương lại “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, suy tư, đầy trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình thì sông Hương lại là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Điều này được thể hiện trong một phát hiện thú vị của tác giả qua đoạn văn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo nhà văn khúc quanh thật bất ngờ đó, như thể hiện một “nỗi vương vấn, trăn trở”, và dường như nó còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu vậy.
Sông Hương trong mối quan hệ khăng khít với lịch sử dân tộc lại mang một vẻ đẹp của bản hùng ca ghi dấu những dấu mốc lịch sử của thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông ở tận biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó còn mang tên là Linh Giang (hay dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, và là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại ”, nó đã “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế XVIII; nó cũng đã “sống hết lịch sử đầy bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với sự thành công vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao cuộc chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc về sau này.
Sông Hương với cuộc đời và thi ca như là một nhân chứng đầy tính nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm, những biến đổi của cuộc đời. Tuy nhiên, cái điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường ấy của dòng sông đó là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến dâng bản thân mình để làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường, làm một người con gái dịu dàng, đằm thắm của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho dòng sông Hương thơ mộng này không bao giờ tự lặp lại mình trong nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn đó chính là tình yêu say đắm, tha thiết với dòng sông được thể hiện bằng tài năng vượt bậc của một cây bút giàu trí tuệ, được tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực từ văn hoá, lịch sử, địa lí tới văn chương, cùng với một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và đầy tài hoa.
Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên vẻ đẹp của xứ Huế, của tâm hồn người dân nơi đây qua sự quan sát sắc sảo, tinh tế của nhà văn về dòng sông Hương. Ông quả xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về cố đô Huế, một cây bút tài năng giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí đã góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào to lớn đối với dòng sông Hương và cũng là với quê hương đất nước.
3. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 3
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng.
Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.
Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thực chậm. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di – gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô – tê xưa cũ”.
Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.
Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.
Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa.
Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “tôi” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác. Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sông Hương là dòng sông của âm nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dòng sông. Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa từ bao đời nay. Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu. Thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dòng sông đã có những thay đổi ra sao. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di – gan, người mẹ phù sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.
4. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 4
Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả, một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê đắm tài hoa.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng, man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.
Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông Hương: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu được một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa” màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương – xứ Huế.
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của kinh thành Huế có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.
Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị. Nó không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy! Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua. Nhưng Huế vẫn giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về sông Hương – Huế:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ – nhạc sĩ của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian, hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình rất dịu dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hướng Đông Bắc để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:
“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh
Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”
Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang, nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết do hồng” ở phía Bắc. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm 1975 bằng những chiến công rung chuyển.
Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu. Đúng là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương – cô gái Huế.
Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình yêu đối với quê hương đất nước.
5. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 5
Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ.
Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang – biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của “một kẻ si tình”, ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già “Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”.
Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế.
Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
Vượt qua khúc thương nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.”
Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Xen của Pari hay sông Đa – nuýp của Buđapet chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc” khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế.
Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.
Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
“Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: ““Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”.
Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?
Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Dần năm 1968.
Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!
Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cũng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.
6. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 6
Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí nổi tiếng của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông là một nhà văn mang nặng ân tình với xứ Huế. Tác phẩm của ông đã lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” được tác giả trình bày dưới dạng ký, thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như tình cảm của con người một cách sâu sắc và súc tích nhất. Thể loại này đưa bài kí vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất chân thành.
Qua giọng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên thật ấn tượng, với một vẻ đẹp thơ mộng đến ngỡ ngàng. Con sông này chính là dòng chảy duy nhất qua thành phố Huế, chính vì điều đó nên nó mang một đặc trưng riêng của xứ Huế mà không nơi nào có được. Có lẽ không chỉ tác giả mà những người dân xứ Huế cũng rất tự hào vì điều này.
Dưới ngòi bút tinh tế, sâu sắc cùng tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông đã trở nên lộng lẫy, mê hoặc người đọc. Con sông hiện lên với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, với chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù cho dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất đẹp và nên thơ như thế.
Đầu tiên, tác giả muốn nói đến sông Hương ở vùng thượng nguồn. Đó là một vẻ đẹp mà không lẫn vào đâu được. Hình ảnh “một cô gái di gan phóng khoáng và man dại; tự do và trong sáng” được tác giả ưu ái khiến cho bóng dáng ấy đi vào lòng người đọc một cách chân thực nhất. Sông Hương còn được tác giả vẽ lên một cách đầy mê hoặc, đó là sông Hương như bản trường ca của rừng già; rầm rộ và mãnh liệt nhưng có lúc lại “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng”.
Hơn thế nữa, sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc về thành phố Huế. Chính vì thế nên vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp vang bóng một nền văn hóa trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi bí ẩn, quyến rũ của cố đô Huế. Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Dòng sông thật đẹp và lãng mạn biết bao.
Để rồi khi sông Hương về với thành phố mộng mơ, rời xa thượng nguồn thì con sông lại trở nên mê đắm hơn bao giờ hết. Cô gái digan hoang dại ấy đã “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẫm, trầm mặc như triết lý….; cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng như mềm hẳn đi, như một tiếng vang không nói ra của tình yêu.”
Những câu văn thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng tình tứ, lãng mạn được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về với thành phố Huế. Những đường nét mềm mại, mê đắm của sông Hương khiến cho tất cả ai khi đọc cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và cứ thế sông Hương len lỏi vào trong lòng người đọc một cách chân thực nhất.
Không chỉ vậy, đối với cố đô Huế, sông Hương còn là một nhân chứng đã cùng chứng kiến biết bao đổi thay, cùng những thăng trầm của thành phố Huế. Sông Hương cứ thế tồn tại như vậy, trải qua biết bao sự việc, cùng những năm tháng không thể nào quên của cố đô Huế nói riêng và thành phố Huế nói chung.
Chỉ với những câu văn giản dị, tinh tế, cùng với tình yêu chân thành tha thiết đối với mảnh đất và con người xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh dòng sông Hương thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
7. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 7
Trước hết, tác giả dẫn ta trở về với khúc sông thượng nguồn để khám phá. Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm, sông Hương có nét đẹp hoang sơ và dữ dội, hùng tráng. Nhà văn đã ví dòng sông như một cô gái Di-gan “phóng khoáng và man dại”. Bởi rừng già ở thượng nguồn đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ cùng tâm hồn tự do, trong sáng cho dòng sông Hương
Tới khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thu lại vẻ dữ dội mà chuyển mình dịu dàng, trí tuệ, mang vẻ đẹp kín đáo, lắng sâu của người con gái. Vẻ đẹp sông Hương hiện lên với hai nét tính cách: vừa phóng khoáng, man dại, vừa dịu dàng, thơ mộng, đắm say
Ra khỏi rừng, sông Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài để hiện lên vóc dáng và sức sống mới. Nó “chuyển dòng liên tục”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sông Hương chảy trôi qua ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi đất Nguyệt Biều, Lương Quán rồi chuyển hướng về phía Đông Bắc, ôm lấy chân chùa Thiên Mụ và xuôi dần về Huế.
Tất cả những nơi nó chảy qua đã nhuốm một vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi” cho chính dòng sông. Và kéo dài bằng tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang ngân
Đến thành phố, sông Hương như tìm thấy chính mình. Nó “vui tươi” hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Ở đoạn văn này, tác giả liên tưởng sông Hương như người con xa xứ háo hức được trở lại mảnh đất quê hương để ngắm nhìn xứ Huế từ xa và nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in trên bầu trời nhỏ nhắn như vầng trăng non.
Trước khi hòa vào biển cả, ở cửa biển Thuận An, sông Hương lại đẹp đến nao lòng trong dáng vẻ lẳng lơ, kín đáo khi ngoặt một khúc quanh rồi vươn tay lưu luyến ôm lấy lần cuối thành phố Huế thân yêu. Những so sánh tài hoa của tác giả giúp ta nhận ra vẻ đẹp độc đáo, sâu sắc của Hương giang giống như nàng Kiều trong đêm tình tự quyết chí đi tìm Kim Trọng để rơi một lời thề chung thủy, sắt son.
Trong hành trình khám phá vẻ đẹp sông hương từ thượng nguồn đến vùng hạ lưu, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá ra sông Hương mang vẻ đẹp của một vùng văn hóa truyền thống. Từ góc nhìn lịch sử, tác giả điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỷ XV ở Dưa địa chí của Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Với cái nhìn xuyên suốt ấy, dòng Hương giang thơ mộng đã tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Sông Hương là vậy, ta thấy nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
Kết thúc phần một của bài ký, tác giả cất lên câu hỏi không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thông thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Đồng thời, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân.
Bài tùy bút đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả đã thể hiện chất thơ quyến rũ làm say lòng người khi ghé thăm. Những tri thức về địa lý, văn hóa, thi ca, âm nhạc của ông đã chung đúc thành trang văn tuyệt bút.
8. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 8
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.
Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.
Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế.
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.
Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
Mời bạn đọc cùng tải về bàn DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung nhé
Tài liệu liên quan cùng chủ đề:
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Soạn văn 12 bài: Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Soạn bài lớp 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Tóm tắt tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.
- Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Văn phong và tình yêu quê hương đất nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà
- Người lái đò sông Đà
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)