Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc là tài liệu được đội ngũ giáo viên của TaiLieuViet biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung phần này của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của mình.

I. Dàn ý Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu

A. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài thơ Việt Bắc.)

B. Thân bài

1. Tác giả

  • Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại.
  • Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.
  • Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

2. Tập thơ Việt Bắc

  • Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến.
  • Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…
  • Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng của dân tộc.

3. Phân tích 8 câu đầu

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

→ Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi những kỉ niệm đã qua.

Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong lối đối đáp dân gian thể hiện được cảm xúc dâng trào cùng nỗi lòng của người ở lại.

“Mười lăm năm” khoảng thời gian đủ dài để giữa người đi và kẻ ở thấu hiểu nhau, có với nhau những kỉ niệm đáng nhớ.

“thiết tha mặn nồng”: tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ chiến sĩ thủy chung, sâu sắc, keo sơn, bền chặt.

Hai câu thơ sau là lời nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Hình ảnh “núi, sông” là sự vận dụng tài tình của tác giả với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người ra đi về Việt Bắc – cội nguồn của Cách mạng, là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cộng khổ chiến đấu và giành chiến thắng.

→ Người ở lại mở lời gợi nhắc nhớ người ra đi về khoảng thời gian gắn bó và những kỉ niệm cùng nhau.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

→ Tiếng lòng của người của người về xuôi mang trong mình sự quyến luyến, nỗi nhớ thương, bịn rịn.

“tha thiết”: sự cảm nhận của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.

“bâng khuâng”: nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn, “bồn chồn” diễn tả sự day dứt, nô nao trong lòng khiến bước đi ngập ngừng.

→ Người ra đi vô cùng lưu luyến Việt Bắc, nửa muốn đi, nửa muốn ở, bịn rịn, phân vân.

“áo chàm” la hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho những người dân Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về miền xuôi.

“phân li” tuy chia cách nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về nhau, vẫn dành trọn vẹn tình cảm cho nhau hẹn ngày gặp lại.

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”: không phải không có gì để nói với nhau mà có rất nhiều điều muốn nói vào giờ phút chia li ấy nhưng không nói thành lời. Một cái cầm tay thay cho tất cả những lời muốn nói. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng thể hiện được nỗi buồn, quyến luyến giữa người đi và kẻ ở.

→ Không gian chia tay đầy bịn rịn.

C. Kết bài

Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ: đoạn thơ đóng góp một phần to lớn vào thành công của tác phẩm và nền văn học Việt Nam; để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

II. Văn mẫu Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu

1. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu – Mẫu 1

Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa. Điều này được thể hiện rất rõ qua tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc”.

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” – người cán bộ về xuôi, “ta” – người dân Việt Bắc. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!

Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.

Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.

2. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu – Mẫu 2

Nhà thơ Tố Hữu là một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ ca Cách mạng, là nhà thơ tiêu biểu nhất cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Chặng đường nghệ thuật của ông gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Việt Bắc – một bài thơ đỉnh cao trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, chỉ với tám câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện niềm yêu thương, nỗi nhớ mong bồi hồi lưu luyến của người dân Việt Bắc với cán bộ Cách mạng:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuân trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ với biết bao cảm xúc chất chứa trong đó: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình” chỉ những người chiến sĩ Cách mạng, những người đã hoàn thành nhiệm vụ và phải ra đi, “ta” chính là những người đồng bào ở Việt Bắc. Câu hỏi ấy như một nỗi niềm khó tả của người ở lại, họ muốn biết rằng những người chiến sĩ cách mạng ấy khi về miền xuôi rồi còn nhớ đến những người Việt Bắc hay không? Cách xưng hô “mình – ta” mang đậm nét dân gian trong các câu ca dao, nó thể hiện một tình cảm gắn bó đầy yêu thương khiến cho nỗi nhớ ngày càng da diết, khôn nguôi khó tả.

“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Mười lăm năm không quá dài nhưng cũng chẳng ngắn, là khoảng thời gian gắn bó bền chặt của những người chiến sĩ cách mạng với con người vùng đất Việt Bắc. Quãng thời gian ấy họ đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Từ “ấy” được tác giả sử dụng đã làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian này, thể hiện sự trân trọng với những tháng ngày ở Việt Bắc ấy. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” lại một lần nữa nhấn mạnh thêm tình cảm keo sơn giữa những người Việt Bắc với người cách mạng. Qua đây, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nghĩa tình, tấm lòng luôn hướng đến cách mạng của những người dân Việt Bắc.

Hai câu thơ tiếp theo như lời nhắc nhở dành cho những người ra đi:

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Nhà thơ lại một lần nữa sử dụng câu hỏi tu từ, cách xưng hô “mình” để nhắc nhở những người chiến sĩ Cách mạng hãy nhớ đến Việt Bắc khi đã về miền xuôi. Cho dù có về nơi phố xá phồn hoa thì vẫn hãy nhớ tới nơi núi rừng Việt Bắc, nơi mà họ đã chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Khi mà nhìn thấy cây hãy nhớ đến nơi núi rừng, nhìn sông hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ về nơi núi rừng Việt Bắc đã cùng những người chiến sĩ vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, cùng nhau chiến đấu anh hùng. Các điệp từ “nhìn”, “nhớ” đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại, cũng như để khẳng định mong muốn những người chiến sĩ hãy luôn nhớ về Việt Bắc – nơi có những con người son sắt, thuỷ chung, luôn một lòng hướng về cách mạng.

Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là lời của những người Việt Bắc mà còn là lời đáp lại tình cảm của những người cách mạng dành cho vùng đất và con người nơi đây:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Đại từ nhân xưng “ai” là đại diện cho những người dân Việt Bắc, tiếng ai ấy chính là những tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn níu giữ những người cách mạng ở lại, cũng chính là tiếng lòng của những người chiến sĩ không muốn chia xa. Từ “tha thiết” khiến cho tiếng lòng ấy vang vọng, đầy sâu lắng khiến người đọc cảm nhận được những tình cảm giữa người Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Câu thơ sau đó lại càng làm nổi bật thêm điều đó:

“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

Lúc này, “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính là tâm trạng của những người ra đi. Bâng khuâng là một trạng thái lưu luyến đầy day dứt, như thể vẫn còn vương vấn lại một điều gì ấy thật khó nói. Nó khiến cho tâm trạng con người ta trở nên đầy bứt dứt, khó chịu. Bồn chồn lại là sự lo lắng, day dứt trong tâm trạng của con người. Những cảm xúc lẫn lộn đan xen ấy đã thể hiện tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng khi trở về với miền xuôi, họ vẫn sẽ mang trong mình nỗ nhung nhớ, day dứt đầy khôn nguôi và trong đó có có những sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng. Chỉ với vài dòng thơ ấy, người đọc cũng đã phần nào cảm nhận được những tình cảm của người cách mạng đối với vùng đất, con người Việt Bắc cũng chẳng kém gì tình cảm mà nơi đây dành cho họ.

Hai câu thơ cuối đã vẽ nên một khung cảnh chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến của người đi với người ở:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Áo chàm là một loại trang phục truyền thống của những người dân tộc vùng đất này, nó là hình ảnh hoán dụ để chỉ chính những con người Việt Bắc. Họ ra tiễn những người cách mạng về nơi miền xuôi với một tâm trạng nao nao khó tả. Từ “phân ly” nghe sao thật buồn, nó thể hiện rằng người đi và người ở lại chẳng muốn rời xa nhau thế nhưng bởi hoàn cảnh, bởi nhiệm vụ mà họ phải chia cách. Chỉ với một cụm từ mà tác giả đã thể hiện được một nỗi niềm tiếc thương nhung nhớ, khẳng định một tình cảm gắn bó đầy sâu sắc của người dân Việt Bắc với chiến sĩ cách mạng và ngược lại. Và tình cảm ấy lại càng rõ ràng hơn ở câu thơ:

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

“Biết nói gì” không phải là không có gì để nói với nhau mà là có quá nhiều thứ cần nói, không biết bắt đầu từ đâu và cũng chẳng ngôn từ nào có thể diễn tả hết nỗi lòng này. Mười lăm năm bên nhau, cùng nhau vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách nên tình cảm họ dành cho nhau là vô cùng sâu đậm. Họ có nhiều điều muốn nói với nhau nhưng chẳng biết làm như thế nào để thốt lên lời, lời muốn nói ra mà cứ nghẹn nơi cổ họng. Không nói ra được nên họ thể hiện qua hành động “cầm tay”. Chỉ với hành động ấy thôi mà chúng ta đã cảm nhận được một tình yêu thương giữa họ. Hành động đơn giản ấy đã thay cho những lời gửi gắm, chia sẻ. Đây cũng là cách mà họ thể hiện tình cảm, thể hiện tâm trạng dù chưa rời xa nhưng đã nhớ nhung của mình.

Chỉ với tám câu thơ lục bát ngắn gọn nhưng nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được biết bao ý nghĩa trong đây. Chúng ta thấy được tình cảm thuỷ chung son sắt, sự gắn bó đầy sâu đậm giữa người đi – người ở. Nhà thơ còn sử dụng các nghệ thuật như lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, điệp từ, hình ảnh hoán dụ… rất thành công. Nó đã thể hiện sự tiêu biểu trong phong cách thơ của Tố Hữu.

Qua đoạn thơ này chúng ta đã hiểu được tình cảm, sự yêu thương mà người Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng dành cho nhau. Thứ tình cảm ấy không phải là sự hoa mĩ, tô vẽ mà là những thứ chân thành xuất phát từ trái tim đầy yêu thương. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đầy sâu sắc về tình cảm gắn bó này.

3. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu – Mẫu 3

Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc. Mở đầu là 8 câu thơ nói về không gian chia tay của người đi – kẻ ở.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi – kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình – ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.

Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác, chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm – vật dụng quen thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau.

Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình – ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

4. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu – Mẫu 4

Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến đấu nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của Cách mạng Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.

Tác phẩm được viết nhân sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp định Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được khắc họa chân thực, sinh động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.

Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, keo sơn, từ 1940 đến 1954.

Sau khi quân ta đánh bại quân giặc để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang, rúng động thế giới, thì đến tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy nghĩa tình của quân và dân.

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa đến nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . Dường như, câu thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử. Vì thế, nói chia ly sao mà xót xa đến thế!

Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt Nam dành cho nhau trong gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu mến nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính vì thế, câu sau tác giả lại tiếp tục thêm câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.

Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có như thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.

Nếu như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của chiến sĩ, cán bộ với người chiến khu:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Người chiến sĩ định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “ai tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bâng khuâng, bồn chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng vẽ lên được sự bịn rịn quyến luyến không muốn chia xa của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những ai gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa đến như vậy. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp diễn. Sự gặp lại biết đến bao giờ. Bởi thế, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. Các chiến sĩ, cán bộ đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người đi. Người đi là các cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ như thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đượm đến như thế!

Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:

“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Nói đến “áo chàm” là người ta nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho Cách mạng. Nhà thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo chàm không dành cho riêng ai, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và các cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau là trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không bắt đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn có lí trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc chia li. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ vẫn có niềm vui của chiến thắng.

8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới các biện pháp nghệ thuật được nhà thơ Tố Hữu sử dụng. Đầu tiên là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về giai điệu. Kết hợp với nhiều biện pháp tư như như hoán dụ, câu hỏi tu từ… giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều cảm xúc.

Qua 8 câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi người ta sống trong gian khổ hiểm nguy. Bởi thế, khi phải nói lời chia tay, mối thâm tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.

Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên nhà thơ Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.

—————————–

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Bộ đề thi thử THPT Quốc Gia đạt 8 điểm môn Văn năm 2023
  • 20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
  • Cách làm bài văn nghị luận xã hội (Dạng tổng hợp)

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các em Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.