Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá là tài liệu Ngữ văn lớp 9 được TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải, bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay, bám sát chương trình học sẽ giúp các em học sinh học tập hiệu quả.
Mục Lục
ToggleDàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
1. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Huy Cận, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và dẫn dắt vào khổ thơ 1, 2 của bài thơ.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
So sánh: mặt trời – hòn lửa: tạo cảm giác gần gũi, quen thuộc, khiến người đọc dễ hình dung.
Nhân hóa: sóng cài then, đêm sập cửa: khiến cho thiên nhiên trở nên sinh động, có hồn hơn.
Hoàn cảnh ra khơi: Buổi hoàng hôn ấm áp, yên bình.
Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then.
→ Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ.
Con người lao động không mệt mỏi, cất cao tiếng hát, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.
b. Khổ thơ thứ hai
Câu hát của người lao động gắn liền với biển khơi, với những loài cá (cá bạc, cá thu,…)
Sự giàu có của biển cả: cá thu như đoàn thoi, đêm ngày dệt biển,… Mẹ thiên nhiêu luôn ưu ái trao cho người dân lao động nơi đây những tinh hoa tốt đẹp nhất.
Khúc hát lao động hùng tráng của con người thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu lao động vô cùng đẹp đẽ của con người nơi đây.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của 2 khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung
Văn mẫu Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá mẫu 1
“Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa… còn xa”
(Thuyền và biển – Xuân Quỳnh)
Đã từ lâu, hình ảnh thuyền và biển đã đi vào trong những tác phẩm nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những người nghệ sĩ. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận, ta sẽ thấy câu chuyện giữa biển khơi vô tận và chiếc thuyền vượt bao sóng gió của con người hiện lên đẹp như huyền thoại, chứa đựng sức hấp dẫn diệu kì.
Tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” được viết vào năm 1958, là kết quả sau chuyến đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh của Huy Cận. Đây là thời kì miền Bắc đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho chiến trường miền Nam, mở ra tương lai tươi sáng nên hồn thơ Huy Cận cũng tràn đầy cảm hứng lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Cra bài thơ miêu tả quá trình lao động vất vả mà vinh quang của những người ngư dân. Trong đó, hai khổ thơ đầu là khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Tâm tư của người ngư dân được gửi gắm ở khổ thơ thứ hai:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Từ “Hát rằng” đặt ở đầu câu gợi ra sự phấn khởi của người dân chài, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Thủ pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu như đoàn thoi” cho thấy tình yêu đối với công việc cùng niềm tự hào về sự giàu có của biển khơi. Hai từ đối lập “Đêm” và “ngày” đặt ở đầu câu thơ thứ ba chỉ vòng thời gian tuần hoàn. Dường như những người dân chài lao động hăng say đến không biết mệt, quên đi cả thời gian. Con tàu của họ dệt nên những câu chuyện của biển cả, mang sự hạnh phúc cho đời sống. Là những đoàn cá đông đúc “như đoàn thoi” đang bơi lội, tạo thành những vệt nước sáng lấp lánh dưới trăng hay là những ca từ trong khúc hát ân tình của những người dân chài đang tỏa rạng giữa màn đêm? Câu thơ cuối với động từ “Đến” đặt ở đầu câu kết hợp với từ “ơi” ở cuối thể hiện thái độ mời gọi, thân thương giữa con người với đoàn cá. Khơ thơ thể hiện trọn vẹn niềm vui tươi, sự say mê và phác họa nên cái giàu đẹp của biển cả quê hương.
Với việc sử dụng thể thơ thất ngôn, hình ảnh thơ giàu sức gợi, liên tưởng phong phú cùng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, điệp từ, liệt kê thì tác giả Huy Cận đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng và vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống của con người lao động. Hai khổ thơ còn thể hiện tình yêu, niềm tự hào với quê hương đất nước của tác giả.
Hai khổ thơ đầu của “Đoàn thuyền đánh cá” thực sự là những câu thơ tuyệt bút, góp phần đưa bài thơ trở thành một trong những sáng tác hay nhất viết về biển cả và con người Việt Nam trong thời kì mới.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2
Tình yêu quê hương đất nước là một trong những đề tài gần gũi và là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp quê hương và bộc lộ niềm tự hào về người lao động trên chính quê hương mình.
Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Các tác phẩm của ông trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thường mang âm hưởng sầu não, buồn chán trước thực tại. Sau cách mạng, đặc biệt là những năm sau khi miền Bắc giành lại độc lập, thơ ông nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới. “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, khi ông có một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai, Quảng Ninh. Hai khổ thơ đầu bài thơ, tác giả đã đưa người đọc đến với vùng thiên nhiên mang hơi thở cuộc sống: khủng cảnh ra khơi của người lao động trên biển.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.”
Tác giả đã kết hợp khéo léo các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, liệt kê để miêu tả vẻ đẹp của biển cả khi đêm về. “Mặt trời xuống biển” được ví như “hòn lửa”, một hình ảnh thật độc đáo. Dường như, ta đang thấy được mặt trời đang lặn dần vào lòng biển, giữa một khung cảnh rộng lớn, trên nền trời là sắc đỏ rực rỡ tựa hòn lửa đang bùng cháy. Cảnh vật như đang vận động theo thời gian, như guồng quay của tạo hoá. Vũ trụ lúc này đây như một ngôi nhà lớn, bóng tối dần bao phủ toàn bộ không gian, những con sóng cũng bắt đầu “cài then”, đóng cánh cửa khổng lồ của biển cả. Thiên nhiên chìm vào giấc ngủ, một ngày dài đã khép lại, tất cả đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi, nhường chỗ cho những hoạt động của con người:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Khi mặt trời đi ngủ, sóng cài then, đêm mở cửa cũng là lúc người dân chài bước vào hành trình lao động của mình. Từ “lại” được sử dụng trong câu để diễn tả công việc ra khơi đều đặn, quen thuộc của người lao động nơi đây. Nó trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên của người lao động. Đoàn thuyền ra khơi trong niềm háo hức, mong đợi.
Câu hát cất lên gửi gắm niềm tin, hy vọng vào một chuyến đi bội thu trở về. Tiếng hát khỏe khoắn ấy làm căng buồm, đưa con thuyền đi phăng phăng, vượt sóng, vượt gió của biển cả để rẽ sóng, dò bụng biển. “Cánh buồm no gió” còn là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần vui vẻ, nhiệt huyết của người lao động khi bắt đầu cuộc hành trình. Có thể thấy, sự kết hợp các hình ảnh “đoàn thuyền”, “câu hát”, “buồm”, “gió” cùng với nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp trong khổ thơ đầu đã tạo nên một cảnh tượng ra khơi đầy hào hùng, vừa đẹp, vừa tráng lệ biết bao!
Hành trình đánh bắt được bắt đầu bằng những bài ca gọi cá. Tiếng hát hòa cùng với công việc của người dân chài miền biển:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.”
Câu hát không chỉ gửi gắm niềm mong mỏi vào một chuyến đi đầy tôm cá mà còn ngợi ca sự giàu có, phong phú của mẹ thiên nhiên. Cá bạc báo biển lặng, cá thu từng đoàn rẽ sóng “như đoàn thoi”. Vẻ đẹp lung linh của những loài cá trong làn nước biển mênh mông cùng ánh vàng, ánh bạc hiện lên thật đẹp, ngỡ là chốn diệu kì của cuộc sống. Bút pháp lãng mạn kết hợp với phép liệt kê, so sánh tạo nên một cảnh biển đêm vừa thực, vừa mộng.
“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!”
Cảnh đánh cá trong đêm giữa biển khơi quá cái nhìn đầy tinh tế của tác giả thật độc đáo. Cách liên tưởng thú vị từ khung cửi dệt vải đến việc mời gọi đàn cá dệt biển, dệt lưới làm cho câu thơ thêm phần mới lạ, cảnh vật trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
“Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Lời mời gọi tha thiết với thán từ gọi đáp “ơi” bộc lộ tình cảm chân thành của người lao động. Một tiếng gọi ân tình để thu cá vào lưới, đáp đền những lao động hăng say mệt nhọc. Nghề chài lưới vất vả, nhọc nhằn là vậy, mà trong âm điệu, lời thơ, ta không thấy mảy may một chút mệt mỏi hay lời than vãn của người dân chài mà trái lại là niềm vui, sự hăng say trong công việc của họ. Những câu hát mang theo mong mỏi, niềm tin, ngợi ca và sự tự hào của thế vàng vọng vào biển cả, nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ dân chài miền biển.
Lời thơ kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự cùng việc sử dụng có ý đồ các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, so sánh, liệt kê đã tạo nên một khúc nhạc lao động vừa gần gũi vừa dạt dào sức sống. Hai khổ thơ mở ra trước ta hình ảnh của một miền biển tươi đẹp, bình yên, giàu có và những con người lạc quan, hết mình với công việc. Đoạn thơ nói riêng và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá nói chung đã góp phần vào tổ điểm hương sắc cho vườn thơ ca ngợi quê hương, Tổ Quốc Việt.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá mẫu 3
Nhà thơ Huy Cận được biết đến là một nhà thơ tài hoa với khả năng và sức sáng tạo dồi dào, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số đó chúng ta phải kể đến chính là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ được đông đảo thế hệ con người Việt Nam biết đế và trân trọng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ra khơi của con người được thể hiện qua hai khổ thơ đầu bài.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiêu lúc chiều tà:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi ánh mặt trời ở phía đằng Đông ngả về phía Tây, cánh cửa màn đêm của vũ trụ như khép lại sau một chu trình hoạt động thì những người ngư dân lại bắt đầu dong thuyền ra khơi đánh cá. Mặt trời được so sánh với hòn lửa đỏ rực đang dần dần lặn xuống biển sâu. Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng. Từng đoàn, từng đoàn thuyền lần lượt nhổ neo tiến về biển lớn đại dương. “Câu hát căng buồm” là một ẩn dụ đẹp, biểu trưng cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con người lao động. Tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Tâm tư của người đánh cá gửi gắm trong tiếng hát: phấn khởi, say mê với công việc và niềm hi vọng tin tưởng sẽ bắt được nhiều cá tôm, đem về làm giàu cho tổ quốc.
Tiếp nối câu hát ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Sự giàu có của biển Đông được thể hiện qua hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu được so sánh “như đoàn thoi” thể hiện sự giàu có của biển cả cũng như niềm hi vọng lớn lao của con người vào một chuyến ra khơi đánh bắt thành công. Ở hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Cách xưng hô thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người, đồng thời cũng thể hiện tấm lòng giản dị, chất phác của người ngư dân trên biển cả, ngày ngày hăng say với công việc lao động.
Hai khổ thơ tuy ngắn gọn nhưng đã phần nào biểu lộ được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người chân thành, chất phác của miền biển cũng như giúp ta có thêm niềm tin yêu, tự hào, hãnh diện về một thế hệ anh dũng đi trước. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ góp phần to lớn làm phong phú nền văn học Việt Nam mà còn giúp chúng ta thêm tự hào về nền thơ văn nước nhà.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá mẫu 4
Biển cả luôn là đề tài khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều nhà thơ, nhà văn. Viết về biển cả, có nhiều khía cạnh để ta khai thác. Một trong số đó chúng ta phải nhắc đến Huy Cận với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ đã mang đến cho bạn đọc bức tranh ra khơi với vẻ đẹp khác biệt, đặc trưng. Ở khổ thơ 1 và 2, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt bạn đọc bức tranh hoàng hôn và cảnh chuẩn bị ra khơi ở làng chài.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên, con người lúc xế chiều:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Mặt trời được so sánh với hòn lửa đỏ rực đang dần dần lặn xuống biển sâu. Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then. Cánh cửa màn đêm của vũ trụ như khép lại sau một chu trình hoạt động thì những người ngư dân lại bắt đầu dong thuyền ra khơi đánh cá. Từ “lại” vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ. Câu hát căng buồm là một ẩn dụ đẹp, biểu trưng cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con người lao động, họ luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê. Và họ hiện lên như những vị chủ nhân mới của biển cả đại dương.
Trước cảnh thiên nhiên đó là tinh thần lạc quan của con người:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Những câu hát vui tươi cất lên đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông. Hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá “đêm ngày dệt biển” ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người. Câu hát với một tâm hồn ngập tràn niềm vui và sức sống, niềm trông đợi vào một mẻ lưới đầy. Cách xưng hô, thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người.
Hai khổ thơ đã góp phần làm nên đặc sắc cho bài thơ và bài thơ đã góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam, mang tên tuổi của nhà thơ Huy Cận đến gần hơn với mọi người. Qua bài thơ, ta thêm hiểu và thêm yêu con người, thiên nhiên biển cả nói riêng và quê hương, đất nước của mình nói chung.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá mẫu 5
Đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn lấy đề tài biển khơi và con người lao động làm cảm hứng cho những sáng tác của mình. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề này mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Ngay ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã dẫn dắt bạn đọc đến với khung cảnh thiên nhiên lúc con người ra khơi:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngừng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động. Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hòa quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn của cả tập thể hòa với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Hai khổ thơ mở ra trước mắt bạn đọc thiên nhiên tươi đẹp và hình ảnh con người tràn đầy sức sống. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Khái quát về nhà thơ Huy Cận
1. Tiểu sử tác giả Huy Cận
Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.
Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau như: Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hóa – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
2. Sự nghiệp văn học của tác giả Huy Cận
Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới.
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đáng chú ý và có một điểm chung là hàm súc, triết lý. Ông là một đại biểu xuất sắc cho phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não.
Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng 8 thì lại mang nét tươi vui. Có thể thấy rằng các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ – cuộc đời, sự sống – cái chết, nỗi buồn – niềm vui, hiện thực – lãng mạn.
Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.
Đôi nét về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
1. Hoàn cảnh sáng tác
Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Tại đây, khi chứng kiến cảnh con người ngày đêm lao động hăng say, kiến thiết nước nhà, Huy Cận đã nảy sinh tình cảm với mảnh đất này. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”
2. Bố cục: 3 phần
Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.
Phần 2: Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.
Phần 3: Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.
3. Giá trị nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, lòng yêu nước của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.
4. Giá trị nghệ thuật bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như: so sánh, nhân hóa thiên nhiên nơi đây khiến nó sinh động hơn. Liệt kê sự giàu có của biển cả cũng như nhịp thơ hùng tráng, tràn đầy sức sống để ca ngợi con người.
———————————–
Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các em Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Giải bài tập Toán lớp 9, Trắc nghiệm Tiếng Anh 9, Lý thuyết môn Vật lí lớp 9, Giải Tập bản đồ Lịch Sử lớp 9 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.
Chúc các em học tập thật tốt.
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)