Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín được TaiLieuViet.vn sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.
Mục Lục
Toggle1. Dàn ý nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
2. Thân bài:
a. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình
– Nhan đề bài thơ: gợi ra sự căng tràn, tròn đầy của mùa xuân.
– Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
b. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử dụng
* Khung cảnh mùa xuân:
– Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống:
+ Hình ảnh thơ gợi hình gợi cảm: “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xuân sang”, “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang”. Đảo ngữ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” với từ láy “sột soạt” để miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc.
+ Nhịp thơ: có sự thay đổi linh hoạt. => Gợi mở không gian.
+ Gieo vần: “vàng” – “sang”, “trời” – “chơi” => Không gian rộng lớn.
=> Ngôn từ của bài thơ gợi lên khung cảnh của một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, rực rỡ và căng tràn sức sống.
– Con người đang độ tuổi xuân rực rỡ:
+ Hình ảnh thơ giàu sức gợi: “đám xuân xanh”, “tiếng ca vắt vẻo”, “khách xa”, “chị ấy”.
+ Biện pháp tu từ:
Nhân hóa “tiếng ca” – “vắt vẻo”, “hổn hển”
So sánh “tiếng ca” – “lời của nước mây”
+ Nhịp thơ cũng có sự thay đổi để phù hợp với tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.
=> Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.
* Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
– Câu hỏi tu từ: “- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
– Gieo vần “làng” – “chang chang” bày tỏ sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.
– Hệ thống từ láy: “Hổn hển”, “thầm thĩ”, “chang chang”, “bâng khuâng”.
=> Thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với người, với đời.
c. Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
– So sánh với bài thơ “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .
3. Kết bài
2. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín mẫu 1
Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái “chín” kết hợp với danh từ “mùa xuân” gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.
Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình tượng thiên nhiên và hình tượng con người trong mùa xuân. Vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống được khắc họa thông qua một loạt các hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm: “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xuân sang”, “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Hình ảnh “làn nắng ửng” cho ta hình dung về màu vàng nhạt của nắng. Đó là màu của nắng sớm mới lên đầy trong trẻo chứ không phải cái nắng gay gắt chói chang của ngày hè hay cái nắng vàng hanh của mùa đông. Trong khi đó “khói mơ tan” lại đem đến hai cách hiểu: khói phát ra từ những căn bếp trong buổi sáng sớm hoặc cũng có thể là làn sương khói tinh mơ. “Làn nắng ửng” kết hợp với “khói mơ tan” tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến để nhường chỗ cho nắng mới lên. Đôi mái nhà tranh được nắng ửng nhuộm vàng để lại ấn tượng về một vùng quê thanh vắng, yên bình trong buổi sớm ban mai. Câu thơ “sột soạt gió trêu tà áo biếc” với biện pháp đảo ngữ và từ láy “sột soạt” vừa diễn tả được âm thanh vừa nhấn mạnh được sự trêu đùa, tình tứ của gió khiến tà áo biếc nhẹ bay. Mùa xuân của tự nhiên đã được hữu hình hóa thông qua biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ “Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”. Tác giả đã ngăn cách câu thơ bằng dấu chấm nhằm tạo nhịp điệu thơ cũng như nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Sự thay đổi nhịp thơ từ 2/2/3 sang 4/3 một cách linh hoạt và cách gieo vần “vàng” – “sang”, “trời” – “chơi” đã mở ra không gian mùa xuân bao la rộng lớn. Trong không gian ấy còn xuất hiện hình ảnh “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ không chỉ miêu tả được sắc xanh, mật độ của cỏ mà còn gợi ra được chuyển động của cỏ theo làn gió khiến mùa xuân ngập tràn khắp không gian. Ngôn từ của bài thơ đã gợi lên khung cảnh mùa xuân đang vào giai đoạn rực rỡ và tràn đầy sức sống nhất.
Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, nổi bật hình ảnh con người đang độ tuổi xuân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi: “bao cô thôn nữ”, “đám xuân xanh”, “tiếng ca vắt vẻo”, “ai ngồi dưới trúc”, “khách xa”, “chị ấy” khiến chúng ta hình dung về sự xuất hiện của con người. Hình ảnh “bao cô thôn nữ hát trên đồi” vừa diễn tả được đối tượng vừa miêu tả được hành động và nơi chốn cụ thể. Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” bỗng chốc trở thành lời nói trực tiếp thông qua dấu gạch ngang, kết hợp với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3, ý thơ bộc lộ sự tiếc nuối tuổi xuân của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. “Tiếng ca” được nhân hóa thông qua từ láy “vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thĩ” tạo ra sự trầm bổng khác nhau, lúc thì nhỏ nhẹ, tha thiết, khi thì dồn dập, gấp gáp. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng hát trong trẻo.
Trái ngược với sự tươi vui, rộn rã của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, khổ thơ cuối đã có sự chùng xuống về mặt cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được khắc họa thông qua hình ảnh “khách xa”. “Khách xa” ở đây có thể hiểu là khách từ phương xa đến làng hoặc cũng có thể là nhà thơ ẩn mình dưới vai trò của một vị khách để diễn tả hoàn cảnh của bản thân. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng, trí nhớ về quê hương. Từ láy “bâng khuâng” gợi ra cảm giác buồn man mác, lửng lơ, vô định kết hợp với từ “sực” càng cho ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc. Tại chính thời điểm đó, nỗi nhớ làng quê ngập tràn, dâng trào trong tâm tưởng của thi nhân. Tương tự câu trên, câu thơ ” – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 và dấu gạch ngang đầu câu khiến câu thơ trở thành lời nói bộc lộ trực tiếp cảm xúc. Đây là câu hỏi của “khách xa” hay của chính tác giả đang tự hỏi chính mình “liệu năm nay chị ấy có còn gánh thóc dọc bờ sông hay không?”. Câu thơ vừa diễn tả được hoạt động “gánh thóc” của đối tượng vừa miêu tả được không gian mùa hè với cái “nắng chang chang”. Cách gieo vần “làng” – “chang chang” đã gợi ra sự vang vọng trong cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Cùng viết về đề tài mùa xuân, Nguyễn Bính thể hiện bức tranh tươi tắn, hồn hậu “chân quê để bày tỏ tình cảm với người con gái thì “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử lại diễn tả một mùa xuân tươi tắn, tràn đầy nhằm bộc lộ tiếc nuối và mặc cảm thân phận trước cuộc sống. Cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều làm nên dấu ấn của “Mùa xuân chín” chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.
Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân thông qua biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hệ thống từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng cách ngắt nhịp, gieo vần phá cách. “Mùa xuân chín” bộc lộ khát khao giao cảm với đời, với người của một hồn thơ “điên” đang mang trọng bệnh nhưng vẫn luôn hướng về cuộc sống.
3. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng” Mùa xuân chín”, ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”
Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió khẽ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng” sột soạt”, tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương.
Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi “gợn tới trời” như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…”
Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch “tiếng ca vắt vẻo” trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “hổn hển” “thì thầm” với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. m “ang” cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, “chị ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.
Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.
4. Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín mẫu 3
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ đi đầu trong các phong trào thơ mới. Các bài thơ của ông mang một tâm hồn, niềm đam mê mãnh liệt với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Một trong những bài thơ hay nhất của ông phải kể đến là bài “Mùa xuân chín” – được in trong tập Thơ năm 1988 để lại cho người nhiều cảm xúc.
Mùa xuân là thời điểm muôn hoa đua nở, cảnh sắc vùng quê tươi đẹp. Bài thơ ” Mùa xuân chín” được nhà thơ sáng tác vào năm 1973, trong thời gian đầu mà nhà thơ lâm bệnh và đăng trong tập Nắng.
Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, hơi thở của mùa xuân thể hiện sâu sắc trong từng câu thơ của Hàn Mặc Tử. Xuân về, mang theo những tia nắng ấm đầu tiên sau một mùa đông giá rét:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”
Nắng xuân không như nắng thường. Đó là “ánh nắng” bởi vì nó có ánh sáng dịu dàng, ấm áp. Từ “làn” gợi cảm giác hơi thở và nắng như một “tảng” mỏng manh, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “thắp sáng” trong “khói mơ”. Khung cảnh thật nhẹ nhàng, xinh đẹp và huyền diệu. Ngòi bút của nhà thơ vẫn hướng đến lối thơ truyền thống, cổ điển, cảnh mà như nhập hồn, như có tình tràn trề. Ánh mặt trời mùa xuân đang tô điểm cho những mái nhà tranh trong làng quê một chút màu sắc và hương thơm của mùa xuân. Tiếng xào xạc trêu đùa của gió với những tà áo xanh biếc. Màu xanh của chiếc áo là sự báo hiệu của một tình yêu mùa xuân. Một chữ “trêu” sao mà ngọt ngào, thật đặc biệt, chẳng gì bằng nghe hương quê trong những câu ca dao, tình ca luôn làm xao xuyến lòng ta…Sự hô ứng vần thơ tạo nên một sự hài hòa, cân xứng và đậm chất thơ mộng của mùa khung cảnh mùa xuân. Chỉ với những điều đơn giản đấy đã gợi lên một sức sống tràn ngập, bình yên đặc biệt ở làng quê.
“Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”. Câu thơ đã thể hiện rõ sự mong ngóng mùa xuân đến sớm của tác giả. Cảm giác ngưng đọng trong cảm xúc vừa dịu dàng, vừa bâng khuâng của mùa xuân. Mạch thơ chùng xuống như mạch cảm xúc, xuân bước vào lấp đầy khoảng trống. Xuân đến mang theo những hơi ấm, giàn hoa thiên lý đã đến lúc vươn mình, phát triển xanh tốt. Mùa xuân thật dịu dàng, bình yên, bao trùm lên khắp không gian các làng quê.
Cứ tưởng mùa xuân sẽ đến một cách thật chậm như khung cảnh mà nó bao trùm, nhưng trong tâm hồn thơ mộng của nhà thơ thì mùa xuân lại đến một cách vội vàng:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.”
Mùa xuân mang đến cho vạn vật trong thiên nhiên một màu tươi mới. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” trong xanh mãi mãi “gợn tới trời” giống như những làn cỏ đang nhảy múa khi gió mùa xuân thổi qua lại. Bầu trời đang dần hồi tưởng lại những hình ảnh đẹp đẽ đang lan tỏa khắp không gian. Nó thể hiện tình cảm đặc biệt nhất đối với những cánh đồng, những cô gái đang hát vang ngọn đồi. Trong sắc xuân ấy, tiếng hát vang lên giữa đồi núi xanh ngát thật vui tươi, như một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam. Hình ảnh “đám xuân xanh” là cách nói dụ tượng trưng cho những cô gái đến tuổi trưởng thành, sắp phải xa người thân để đi lấy chồng. Niềm vui được nhân lên nhiều lần khi có thêm niềm vui của hạnh phúc lứa đôi. Như vậy, là ngày mai cô gái đến tuổi xuân thì đã đi lấy chồng, bỏ lại những ngày tháng được cùng bạn bè đi chơi. Tuy có chút nuối tiếc của tuổi trẻ nhưng cũng là niềm vui khi cô gái tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Mùa xuân đến, tô điểm thêm cho cuộc sống những niềm vui, tình yêu, hạnh phúc màu hồng. Qua đó, cho thấy mức độ nở rộ và nó tràn đầy sức sống của vạn vật đang dần sinh sôi, nảy nở.
Với nhà thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên chưa bao giờ là hết:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây.”
Tiếng hát “vắt vẻo” và ” thơ ngây” giữa rừng mùa xuân bát ngát đấy sao mà thân quen đến vậy. Tình cảm của đôi lứa đã đến lúc chín muồi, nhất là trong lòng của những cô gái đang tuổi xuân thì, tiếng hát ” vắt vẻo” như một bản tình ca mùa xuân. Đời sống tình cảm, nồng nàn của nhà thơ được thể hiện sâu sắc trong lời bài hát đấy, và nó càng “chín” hơn trong những mùa xuân khi có người thì thầm, tâm sự cùng. Âm thanh bài hát còn đọng lại trong từng ý thơ, hòa nhịp âm trầm, bay bổng tạo nên một sự chuyển đổi âm thanh hài hòa, tinh tế. Tâm hồn thơ mộng của nhà thơ đã hòa cùng là một với thế giới của những âm sắc mùa xuân. Tiếng hát “hổn hển” được ví von “như lời của nước mây”, nó như nhịp thở vội vàng của mùa xuân đến. Đôi lứa thì thầm, tâm sự dưới những rừng trúc bao la, gắn kết tình cảm với nhau để tìm niềm vui, hạnh phúc. Đoạn thơ mang nhiều cung bậc âm thanh của mùa xuân, chan chứa niềm vui, sự tươi đẹp mới mẻ. Chính những điều đó để rồi đến những người đọc cũng cảm nhận được sự “ý vị và thơ ngây”. Khung cảnh thiên nhiên của mùa xuân “chín” mang lại cho con người ta một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, một tình cảm gắn kết đặc biệt nếu ta đã từng ghé qua:
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”
Những người khách, người con xa quê trong một lần bắt gặp khung cảnh mùa xuân yên bình, tươi đẹp trên những làng quê mà lưu luyến, khó quên được. Những khung cảnh thiên nhiên ấy làm cho tâm hồn của họ có một nỗi buồn, nỗi nhớ da diết về những kí ức xưa cũ mà bao nhiêu năm họ mới được nhìn lại. Nếu ở đầu bài thơ tác giả đã gợi tả một mùa xuân tươi đẹp, xanh ngát thì bây giờ đã đến lúc mùa xuân chín. Đã đến lúc những ánh nắng chói chang của mùa hè thay thế cho sự ấm áp, phát triển xanh tốt của mùa xuân. Hình ảnh người chị gánh thóc dọc bờ sông đấy là hình ảnh người con gái lúc xuân thì, sau khi có gia đình phải tần tảo lo toan. Cuộc sống đã đưa họ đến những vất vả, nhọc nhằn nhưng đó nét đẹp lao động của người vợ, người mẹ Việt Nam lúc bấy giờ.
Bài thơ nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị, giúp nhà thơ chuyển tải rõ ràng cảm xúc của mình. Từng câu chữ như cả một bầu trời chan chứa yêu thương, cả cho quê hương đã khó rời xa và cho những kỷ niệm về mái ấm ấy. Ngôn ngữ kết tinh và tấm lòng nhân hậu của nhà thơ đã làm cho bài thơ “Mùa xuân chín” chan chứa đầy cảm xúc.
——————————-
Trên đây TaiLieuViet.vn vừa gửi tới bạn đọc bài văn mẫu Nghị luận phân tích, đánh giá bài thơ Mùa xuân chín. Bài viết đã cho chúng ta thấy được dàn ý và các bài văn mẫu về bài phân tích đánh giá bài thơ Mùa xuân chín. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 10 KNTT. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập các môn Toán 10 KNTT…
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)