Phân tích truyện Vợ chồng A Phủ được TaiLieuViet.vn sưu tầm và gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

I. Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài

a. Cái nhìn của nhà văn

Những chàng trai cô gái Mèo của ông là những người đẹp người đẹp nết, dũng cảm, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh: “Mị thổi sáo giỏi”, “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, còn A Phủ là chàng trai được nhiều người con gái ao ước: “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa…”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”.

Ở họ có những phẩm chất tốt đẹp: Mị thà phải lao động vất vả hơn làm con dâu nhà giàu, A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề khóc lóc van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn nhẫn.

Bên ngoài cái xác không hồn khô cứng của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiền tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ.

→ Tô Hoài bộc lộ thái độ căm ghét đối với chế độ thực dân phong kiến qua hình ảnh cha con ông thống lí Pá Tra. Lên án cái xấu để bảo vệ cái đẹp cũng là nhân đạo.

b. Xét về hình thức

Đặt nhân vật trong những hoàn cảnh thích hợp, tác giả đã miêu tả được bước chuyển sinh động của tâm lí nhân vật trong sự phát triển từ tiệm tiến đến đột biến, bất ngờ hợp lí và hấp dẫn.

Truyện diễn ra trong một khung cảnh đậm đà hương sắc Tây Bắc về mùa xuân, về những đêm trai gái người dân tộc thiểu số người dân tộc thiểu số đi tìm bạn tình… là những trang vừa thực, vừa giàu chất thơ bay bổng.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của và khái quát lại ý nghĩa của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

Mời thầy cô và cá em học sinh tham khảo thêm tài liệu: Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân

II. Văn mẫu Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 1

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng chính sách cho vay nặng lão nhằm đọa đày người lương thiện. Trước tiên là ở Mị, nàng bị buộc vào vòng lẩn quẩn của cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Còn ở A Phủ là khoản nợ 100 đồng bạc trắng. Chúng trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc đời đau khổ. Đến một ngày thì Mị không còn ý thức phản kháng nữa, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa… ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.” Rồi đến một ngày Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua. Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở nợ, “đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày.

Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được thể hiện thông qua những tiếng nức nở của các nhân vật. Mị được miêu tả lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”, cả cuộc đời cô dường như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt. “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.” Mị sợ, Mị cựa quậy, xem mình còn sống còn sống hay chết. Sợ chết là vẫn còn muốn sống, ý thức khát khao ấy như ánh sáng nhỏ nhoi khiến độc giả phải xúc động cho một số phận đau khổ. Ở A Phủ, đó là nỗi thương cảm dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Ngày nhỏ, “có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng”. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn sẽ ôm lấy Mị và A Phủ, đưa những con người lương thiện thoát ra khỏi phận đời đau khổ.

Cuối cùng, tác giả thể hiện niềm trân trọng và đồng tình với khát vọng được tự do, được hạnh phúc của Mị và A Phủ. Niềm trân trọng ấy được thể hiện trước tiên ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội… Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ… tiếng trẻ con nô đùa…” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Khi Mị nhìn thấy “hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị bừng tỉnh, vụt chạy ra. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc đời khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân đồng tình cho khát vọng được kiếm tìm hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Để hiểu thêm về nhân vật A Phủ, mời các em học sinh và quý thầy cô tham khảo bài làm: Nhân vật A Phủ

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 2

  • Bộ đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn – Số 2
  • Bộ đề thi thử THPT Quốc gia môn Toán – Số 2
  • Bộ đề thi thử THPT Quốc gia môn Tiếng Anh – Số 2

Vợ chồng A phủ nói lên nỗi bất hạnh của người dân trong xã hội lúc bấy giờ trước sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến. Tác giả đã khắc họa chi tiết cuộc sống cũng như tâm tư tình cảm, khát vọng được tự do của người dân vùng núi miền Tây Bắc, qua đó thể tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn với người dân.

Bằng ngòi bút miêu tả sắc sảo của mình, nhà văn đã tái hiện lại thực trạng cái xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi lơ lững trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.

Xuất hiện bên cạnh cuộc đời cơ cực của Mị là A Phủ. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Mà vấn đề là hắn muốn A Phủ làm nô lệ, làm công cụ kiếm tiền của lão. Không có một chút công lí nào trong xã hội lúc bấy giờ, quyền lực trong tay bọn cường hào ác bá, chúng thích cho đúng là được đúng, thích bắt sai là được sai. Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.

Giá trị thực nằm ở chỗ, nhà văn đã biết đào sâu vào hiện thực và đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Đó là tấm lòng cao cả của nhà văn, mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết “Vợ chồng A Phủ” sau cách mạng tháng tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân thật chân lí đơn giản ấy. Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Đây mới thật sự là một giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hóa nhân cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải “quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ với bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa. Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc ước ao. Liệu cô ta có thể thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời: có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt tâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cảnh nào đây? Phép mầu nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay. Là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu” nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lại động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm“, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân“. Và bên tai Mị cứ “lững lờ”. Tiếng sáo sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy“. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con Thống Lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!

Qua việc khắc họa thành công hai nhân vật chính trong truyện, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chính chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn.

Với những cảnh đời éo le, với những nỗi khổ đau đến cùng cực, tưởng như mãi mãi phải chìm trong u tối, thì các nhân vật đã tỉnh ngộ, vùng dậy một cách bất ngờ và cương quyết, đó chính là thành công lớn nhất của tác phẩm và lá giá trị cao đẹp của tác phẩm. Tác giả đã có sự cảm thông sâu sắc trước nỗi đau của Mị và A Phủ, trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này.

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 3

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài – là truyện ngắn rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” viết vào năm 1953. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Truyện viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với cách mạng và niềm cảm thông sâu sắc trước số phận khốn khổ, bất hạnh tủi nhục khi bị mất quyền sống của người dân lao động miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân và qua đó ca ngợi tinh thần cách mạng của họ.

Đọc truyện ngắn ta thực sự xót xa cho Mị, một cô gái Mèo đẹp nết, đẹp người: cần cù,đảm đang, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời… chỉ vì gia đình nghèo mà Mị phải đi làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra.Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”, thậm chí nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật: “bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày cả đêm”…

….Những ngày tết A Sử đi chơi, Mị còn bị trói đứng trong buồng tối. Vậy mà khi vừa được chị dâu cởi trói Mị lại phải đi hái lá thuốc cho chồng, nhỡ mệt thiếp đi thì lại bị A Sử lấy chân đạp vào đầu. Danh nghĩa là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị cũng chỉ là một nô lệ làm việc không công. Mị không chỉ bị bố con A Sử bóc lột về sức lao động mà còn bị chúng hủy hoại cả cuộc sống tinh thần, ngăn cấm và dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng dù là rất nhỏ của cô gái trẻ. Đã mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Đã có lúc cô muốn tìm đến cái chết nhưng vì thương cha, lo cho người cha già yếu không lo nổi món nợ lớn nên cô không thể chết, đành quay lại cuộc đời nô lệ để trả nợ cho cha.

Bị giam hãm đầy đọa trong cái địa ngục ấy, Mị đang chết dần với năm tháng, Mị gần như tê liệt sức sống. Mị không còn ý thức về không gian, thời gian và các mối quan hệ xã hội, không hiện tại và cũng không có cả tương lai. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen với cái khổ rồi. Cuộc đời của Mị chỉ thu lại qua khung cửa sổ nhỏ bằng bàn tay “mờ mờ”, “trăng trắng không biết là sương hay nắng”. Mị hầu như mất hết cả ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận, thậm chí Mị còn không có cả những ý nghĩ về cái chết nữa.

Bên cạnh nhân vật Mị là nhân vật A Phủ. A Phủ vốn là một thanh niên tràn đầy sức sống, khỏe mạnh, gan dạ, lao động giỏi có lòng nhiệt huyết với công việc vậy mà chỉ vì một lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành kẻ đi ở đợ cho nhà thống lí. Cũng như Mị những ngày sống ở nhà thống lí A Phủ chịu biết bao sự đầy đọa nhục hình cả về thể xác lẫn tinh thần. Để rồi trong gian khổ hai con người này đã gặp nhau ở sự đồng cảm sâu sắc, ở tình thương con người cùng cảnh ngộ.

Giá trị nhân đạo còn được thể hiện ở chỗ nhà văn vạch trần những hành vi, việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của cha con nhà thống lí. Chỉ cần xem cách đối sử của A Sử với Mị cũng thấy được điều đó. Sau khi bị A Phủ đánh chảy máu đầu, được Mị bóp thuốc cho A Sử không những không cảm kích mà ngược lại khi Mị mệt quá thiếp đi, A Sử lại dùng chân đạp vào mặt Mị một cách tàn nhẫn… Mặt khác giá trị nhân đạo còn được thể hiện ở sự cảm thông và thấu hiểu những tâm tư tình cảm, tâm trạng của những con người khốn khổ. Để rồi qua đó tác giả phát hiện ra sức sống tiềm tàng trong họ và phẩm chất tốt đẹp của họ. Tiếng khèn, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bồi hồi. Với Mị, tiếng sáo là tín hiệu của tình yêu, hạnh phúc, tự do và cô khao khát đến cháy bỏng: “ngày trước Mị thổi sao giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê…”. Mị sống lại những kỉ niệm đẹp đẽ, ngọt ngào với tiếng sáo, Mị trở về với niềm vui sống trong hiện tại. Mị muốn đi chơi. Lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ. Quên đi những đau đớn thể xác, Mị đã “vùng bước đi”. Dòng nước mắt lăn trên má Mị đã khơi dậy trong tâm hồn Mị niềm cảm thông sâu sắc khi thấy A phủ bị trói đứng. Càng thương mình Mị lại càng thưong người. Mị ko thể dửng dưng câm lặng đc nữa. Tình thương đã lấn áp cả nỗi sợ và cao hơn cả cái chết.Mị đã đi đến hành động cắt dây trói cho A Phủ. Đây là quá trình tự phát nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả một quá trình sức sống ko ngừng trong con người Mị. Chính những phẩm chất tâm hồn tốt đẹp đã giúp cho Mị và A phủ có đủ sức sống và nghị lực để trỗi dậy, chạy trốn khỏi Hồng Ngài, đi tìm tự do cho chính mình.Mị và A Phủ đã chạy đến Phiềng Xa và giác ngộ cách mạng. Từ trong tăm tối, đau thương Đảng đã dẫn đường chỉ lối cho họ, giúp họ tìm ra con đường mới: con đường Cách mạng.

Tóm lại “Vợ chồng A phủ” mang ý nghĩa tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người tiêu biểu là số phận của Mị và A Phủ.

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 4

Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng: Đó là biểu hiện của lòng yêu nước thương nòi, lên án tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Đồng thời, khẳng định đề cao phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, công lý và chính nghĩa, đề cao đạo lý tốt đẹp giữa người với người.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài sáng tác năm 1952 đề cập tới số phận hai nhân vật Mị và A Phủ, thông qua việc lên án tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị ở niềm núi; đồng thời bênh vực, cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh, khổ đau của họ. Bên cạnh đó, Tô Hoài còn trân trọng những khát vọng sống và đồng tình với tinh thần phản kháng mở ra một con đường mới. Đó chính là giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm.

Từ cổ chí kim, tư tưởng nhân đạo là linh hồn, là thước đo giá trị tác phẩm văn học. Tư tưởng giá trị ấy được nhà văn thể hiện thông qua nhân vật trung tâm của tác phẩm. Tô hoài từng quan niệm nhân vật là linh hồn của tác phẩm để nhà văn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả với cuộc đời.

Ngay từ đầu tác phẩm, Tô Hoài đã cho người đọc thấy hai cảnh đối lập: Mị đang ngồi quay sợi bên cạnh tảng đá, tàu ngựa, mặt lúc nào cũng cúi xuống và buồn rười rượi. Một bên là cảnh nhà thống lý đang tấp nập người ra kẻ vào có nhiều nương, nhiều bạc tiền, nhiều thuốc phiện nhất làng.

Câu văn kể thản nhiên như phơi bày bản chất của kẻ làm tay sai cho đế quốc, vừa ức hiếp chính người dân của mình. Qua đó, hé mở cho người đọc hiểu vì sao Mị có mặt trong cái nhà quan lại giàu có nhất làng mà Mị vẫn phải làm việc quần quật, bị đối xử như nô lệ, thậm chí không bằng kiếp trâu, kiếp ngựa. Bởi Mị còn phải trả món nợ truyền thống của cha mẹ để lại cho nhà thống lý.

Xây dựng nhân vật A Phủ, Tô Hoài tô đậm thêm bức tranh hiện thực cuộc sống. Từ một đứa trẻ mồ côi, vô tội, A Phủ lang thang kiếm sống, lớn lên và thành nô lệ nhà thống lí vì tội đánh lại con quan – con trời.

Thật nực cười khi kẻ ngồi trên ghế quan tòa phán quyết lý lẽ đúng sai lại chính là một tên kẻ cướp. Cái lí lẽ vay trả đối với gia đình Mị và A Phủ chẳng phải là lí lẽ của kẻ thống trị chuyên quyền, áp bức, cướp đoạt sức lao động, cướp quyền làm người của những người dân vô tội?

Nói về nỗi khổ đau của Mị và A Phủ cùng những hành động tàn độc, vô nhân đạo của cha con thống lí Pá Tra, nhà văn đã nhân danh quyền con người và lên án, tố cáo tội ác của chúng với người dân vô tội.

Khi nói về cuộc sống khổ đau, tăm tối của Mị và A Phủ, ẩn sâu trong ngòi bút Tô Hoài là sự bênh vực và cảm thông sâu sắc. Xót xa miêu tả cuộc đời Mị khi còn ở với cha mẹ. Lúc ấy còn là cô gái xinh đẹp, nết na, hiền thảo, có tâm hồn trong sáng và nhiều khát khao hạnh phúc. Mị còn có tài thổi sáo, kèn lá vì thế có nhiều chàng trai say mê. Thế mà bỗng chốc, Mị trở thành con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ.

Còn A Phủ mới 10 tuổi đã bị người làng bán xuống vùng thấp lấy thóc để ăn. A Phủ bị quỳ, bị đánh chửi suốt một ngày một đêm mà vẫn phải câm như thóc, phải cầm dao giết lợn để phục vụ cho chính kẻ hành hạ mình, phải đóng cọc để tự trói mình vào, bất lực không thể làm gì khi cái chết đã đến kề bên…

Viết về nỗi khổ đau, bất hạnh, ngòi bút nhà văn như có nước mắt, ông đã gieo vào lòng người đọc một niềm thương cảm sâu xa trước số phận con người.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm, sâu sắc nhất là sự trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người nông dân cùng khổ. Ngòi bút Tô Hoài từng bước rọi sâu khám phá vào miền thân u của thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm tư, nỗi niềm và khát vọng của họ. Không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ; đồng thời vạch ra cho họ con đường giải phóng.

Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến nội tâm và hành động nhân vật tự nhiên và sống động. Đó cũng là quy luật tự nhiên tất yếu của sự sống,

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã phải đi, phải nhìn, phải nghe, phải suy ngẫm, phải đào bởi bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử. Đó là tấm lòng của một nhà văn lớn luôn đứng về phía người cùng khổ để sống và viết.

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 5

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, ngoài những cái tên nổi tiếng như Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… khi viết về đề tài người nông dân và trí thức cũ ở vùng đồng bằng phía bắc với những đắng cay, đau đớn tột cùng về số phận con người dưới chế thực dân nửa phong kiến. Thì Tô Hoài cũng là một trong những tác giả để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm phản ánh rất rõ đời sống của nhân dân miền núi phía Bắc, đặc biệt là người phụ nữ dưới sự áp bức chà đạp của cả phong kiến cường quyền và thần quyền. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài khi nói về đề tài này, ở đó không chỉ nêu ra được những giá trị hiện thực khi phản ánh bộ mặt thối nát của xã hội lúc bấy giờ, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc, thương cảm xót xa cho từng số phận bi kịch của con người dưới ách cường quyền.

Trước hết nói về giá trị hiện thực, ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là bức tranh về cuộc sống bị áp bức, chà đạp tàn bạo của những người nông dân thấp cổ bé họng, giống như Mị và A Phủ. Ở họ hội tụ đầy đủ những yếu tố của một con người xứng đáng có được hạnh phúc, ví như bản thân Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thuận, có tài thổi sáo, thổi lá, đồng thời cũng có một tình yêu đẹp. Còn A Phủ tuy là một chàng trai có số phận bất hạnh, nhưng anh lại là người có ý chí, chăm chỉ lao động, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái ở Hồng Ngài. Ấy thế mà hai con người ấy một người chỉ vì món nợ truyền kiếp của cha, một người chỉ vì việc tranh chấp đánh nhau với nhà quan mà phải trở thành nô lệ, trở thành những công cụ làm việc biết nói, gần như vĩnh viễn chôn vùi cuộc đời tại nơi cửa quan, chịu đựng biết bao đắng cay tủi nhục.

Bi kịch của Mị xuất phát từ món nợ truyền kiếp của cha mẹ, cuối cùng cô phải chấp nhận làm con dâu gán nợ, để tận hiếu với cha, đau đớn đến độ muốn chọn cái chết bằng nắm lá ngón, Mị cũng không thể toại nguyện. Cuối cùng một cô gái đương phơi phới sức xuân, trở thành một người đàn bà lúc nào mặt cũng buồn rười rượi, quanh năm suốt tháng làm lụng, quên cả việc phải nói phải cười. Chai lì hết mọi xúc cảm và khao khát tự do, biến thành một con người lầm lũi như con rùa trong xó cửa, khổ đến mức độ “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, rồi thì cô còn tự ý thức được rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ chịu đày đọa về thể xác mà ngay cả đời sống tinh thần Mị cũng phải gánh chịu nhiều giày vò. Cô bị ép gả cho người mình không yêu là A Sử, chồng Mị luôn cấm đoán, đánh đập và đối xử với Mị một cách tàn nhẫn, cuộc sống của Mị bị vây trong một con buồng tối có duy nhất một ô cửa bé bằng bàn tay mà “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó là một cuộc đời cầm tù chung thân, Mị đã tuyệt vọng nghĩ rồi cô sẽ sống ở căn phòng tối tăm này cho đến chết thì thôi, chứ không còn một mối thoát nào khác. Sự chèn ép, đàn áp ấy đã khiến Mị trở nên trơ lì như gỗ đá, không còn một chút tha thiết gì về cuộc đời, làm tê liệt hết những sự phản kháng, tê liệt cả tuổi trẻ và tàn hoại một con người vốn xứng đáng nhận về hạnh phúc cho mình.

Bên cạnh Mị, A Phủ cũng là một nhân vật phải gánh chịu sự chà đạp, chèn ép đầy bất công và đáng căm hận từ bè lũ thống trị nhà thống lý Pá Tra. Chỉ vì một cuộc ẩu đả với A Sử mà cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một số tiền mà không biết được rằng đến hết đời này của A Phủ, rồi đến đời con đời cháu của anh có thể trả xong hay không. Như vậy chỉ từ một chuyện nhỏ, A Phủ đã phải vĩnh viễn chôn chân tại nhà kẻ thống trị, làm lụng như trâu, như ngựa, sống cuộc đời của một nô lệ để trả món nợ bất công.

Một nhân vật nữa dù chỉ xuất hiện thoáng qua, thế nhưng ông cũng là một nạn nhân phải chịu sự áp bức của cường quyền ấy là cha của Mị. Một người nông dân nghèo, vay tiền nhà thống lý để cưới vợ, làm lụng quanh năm suốt tháng để trả nợ, năm nào cũng trả một nương ngô, ấy vậy mà đến khi Mị đã lớn, người vợ đã chết, món nợ ấy vẫn còn. Chẳng có món nợ nào lại dai dẳng đến thế, chỉ có một điều là kẻ cầm quyền đã lợi dụng quyền lực của mình để bắt ép người nông dân, những người thấp cổ bé họng phải trả những món nợ không tưởng, cuối cùng phải trả giá cả bằng hạnh phúc của chính con cái mình. Đó là sự bóc lột, chèn ép đến tột cùng mà bè lũ phong kiến miền núi đã áp đặt lên những người lao động nhỏ bé, không có quyền được lên tiếng, cốt để thu về những món lợi vô nhân đạo.

Giá trị hiện thực thứ hai trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ấy chính là sự tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn bạo, gian ác của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Sự tàn bạo ấy thể hiện ở việc Mị bị bắt cướp về nhà thống lý cúng trình ma mà không được sự ưng thuận của cô, cho đến việc cuộc đời của Mị và những người phụ nữ trong ngôi nhà ấy quanh năm suốt tháng chỉ biết làm lụng, bị bóc lột đến tận cùng như trâu ngựa, thậm chí còn không bằng. Ấn tượng nhất là chi tiết Mị muốn đi chơi, ngay lúc đó A Sử trở về nó không nói không rằng đã túm tóc Mị rồi trói đứng Mị ở cái cột trong căn buồng tối, rồi bỏ đi chơi tiếp. Thật không dám nghĩ nếu như không phải vì A Sử bị thương, cần người đắp thuốc thì có lẽ Mị dã bị trói đến chết mà không ai hay biết, bởi lẽ trong ngôi nhà này đã từng có một người đàn bà phải chịu chết trói như vậy. Rồi ngay cả khi Mị tận tâm chăm sóc cho chồng, chỉ vì mệt quá nên thiếp đi, ấy thế mà A Sử đã thẳng chân đạp Mị ngã dúi dụi, có thể nói là độc ác và lạnh lùng đến vô cùng. Ở câu chuyện của nhân vật A Phủ sự tàn ác, bất nhân của bè lũ phong kiến miền núi lại càng được thể hiện rõ. Vụ việc ẩu đả giữa A Sử và A Phủ đã trở thành cái cớ, để chúng biến A Phủ thành một nô lệ trong nhàn quan, để có thể ra sức bóc lột. Một đám xử kiện, thế nhưng người ta chỉ thấy khói thuốc phiện ngập tràn, cùng với một loạt những lời định tội, tính tiền hệt những con buồn, cuối cùng khép A Phủ vào món nợ 100 bạc trắng, một số tiền mà không biết hết đời ở đợ của A Phủ đã trả hết hay chưa. Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó, trong một lần chăn bò, A Phủ lỡ để hổ vồ mất một con, và phải chịu bị trói đứng giữa sân, trong trời đông giá rét, chịu đói, chịu lạnh, mà có khi đôi ba hôm nữa sẽ phải chịu chết, một cái chết đầy oan ức. Như vậy chúng đã coi sinh mạng của A Phủ còn chẳng bằng một con bò bị mất, thật độc ác và bất công đến tột cùng, đến một người vốn ẩn nhẫn và cam chịu như Mị cũng không thể chịu nổi mà căm hận, xót thương cho cuộc đời của A Phủ.

Về giá trị nhân đạo, Vợ chồng A Phủ trước tiên là hướng tới việc cảm thông, thương cảm cho số phận những người nông dân phải chịu đàn áp, bất công như Mị và A Phủ, thông qua đó tố cáo, lên án mạnh mẽ chế độ cường quyền và thần quyền gian ác đã chèn ép, chà đạp, bóc lột không chỉ là sức lao động mà còn cả quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Bên cạnh đó là sự thấu hiểu, nhìn nhận được những phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn đáng quý ngự trị trong những người nông dân bị đàn áp. Ở Mị là sự xinh đẹp, chăm chỉ làm lụng, hiếu thảo với cha, tài năng thổi sáo, thổi lá, cùng với những khát khao, ước vọng được sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc tha thiết. Cùng với đó là tinh thần phản kháng mạnh mẽ, ẩn sâu tiềm tàng bên trong lớp vỏ chai lì, vô cảm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn, đau đớn đến nhường nào, nó vẫn chưa từng bị giết chết, hay bị lãng quên, chỉ là được Mị đem giấu đi thật kỹ, chờ ngày bùng nổ. Một vẻ đẹp tâm hồn đáng quý nữa ở nhân vật Mị ấy là tấm lòng thấu hiểu, đồng cảm cho những người cùng cảnh ngộ. Trong khi thấy A Phủ bị trói đứng đến chết, lòng Mị đã dấy lên sự phẫn nộ, căm tức, ý thức được sự bất công trong xã hội, cuối cùng dẫn đến hành động quyết liệt, dũng cảm là cắt dây cởi trói cho A Phủ, còn bản thân nàng nguyện hy sinh. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì giá trị nhân đạo của tác phẩm vẫn chưa đạt độ chín, chi tiết đắt giá nhất thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác phẩm ấy là cảnh Mị tự giải thoát cho chính mình, một người đàn bà đã sống cuộc đời lầm lũi suốt mấy năm trời ở nhà thống lý, đến chết cũng chẳng màng tới nữa, ấy vậy mà nay lại vùng lên bỏ trốn, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự chuyển biến ở tâm hồn của Mị, càng khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ và niềm khao khát tự do đến cháy bỏng của cô, mà dùng bất cứ giá nào Mị cũng chịu đánh đổi để có được nó.

Ở A Phủ, ngoài những vẻ đẹp ngoại hình, sự chăm chỉ cần mẫn, dám xông pha, thì một trong những chi tiết ấn tượng nhất về nhân vật này ấy là giọt nước mắt đêm đông, lúc anh bị trói đứng. Có thể nói rằng cuộc đời A Phủ chưa từng khuất phục, dù là lúc bị phạt vạ, phải đi ở đợ, nhưng anh vẫn luôn nỗ lực hết mình. Chỉ đến khi bị trói đứng vì một con bò, A Phủ mới bắt đầu thấy tuyệt vọng, thấy đắng cay tột cùng, giọt nước mắt ấy là sự xót xa, nuối tiếc cho một cuộc đời còn đang dang dở phía trước, là sự đau đớn khi khao khát được sống, được tự do đang dần lụi tàn trước mắt. Điều đó chứng tỏ bản thân A Phủ có một niềm khao khát sự sống và tự do chẳng kém gì Mị, anh muốn sống, muốn được hạnh phúc, thế nhưng phong kiến cường quyền và thần quyền đã dùng sợi dây trói định cắt đứt tất cả. Khóc không phải là yếu đuối mà là sự ý thức thân phận đớn đau, cũng là sự căm hận, uất ức trước những bất công mà A Phủ phải gánh chịu. Một điểm nữa để thấy được vẻ đẹp của A Phủ ấy là cảnh khi Mị vừa cắt dây trói, người đàn ông chịu đói chịu rét suốt mấy ngày đã khuỵu xuống, thế nhưng ngay lập tức dùng hết sức bình sinh để vừa chạy vừa lăn xuống triền đồi tẩu thoát, không do dự. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dù chỉ còn chút hơi sức cuối cùng cũng không bao giờ từ bỏ, quyết nắm lấy từng cơ hội mong manh để tự giải thoát cho bản thân mình của nhân vật.

Như vậy với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Nó không chỉ tập trung phản ánh, tố cáo bộ mặt thối nát, tàn ác của xã hội mà còn tập trung vào vẻ đẹp trong tâm hồn của con người, đồng thời khơi gợi, mở ra cho họ những lối thoát mới, cổ vũ người nông dân chịu áp bức mạnh mẽ đứng lên để tự giải phóng bản thân, đấu tranh đòi lại quyền bình đẳng, công bằng trong xã hội, manh nha cho phong trào làm cách mạng của đồng bào ở miền núi phía Bắc.

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 6

Tô Hoài (1920 – 2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công. Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một cuốn truyền vua, viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay. Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông: “Viết văn là một quả trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đạp vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trấn thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vùng giàu có – nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, hay động người đọc. Tiêu biểu trong số các sáng tác của ông là Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập Truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc. Thông qua tác phẩm, nhà văn đã lên án sự tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. Đồng thời bênh vực, cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh, khổ đau của những con người có số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Bên cạnh đó, Tô Hoài còn trân trọng những khát vọng sống và đồng tình với tinh thần phản kháng mở ra một con đường mới. Đó chính là giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Trong mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực cường quyền và thần quyền ở vùng núi Tây Bắc. Mị là cô gái khi sinh ra đã bị trói buộc bởi cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Đó là cái nợ mà cha mẹ cô đã vay của nhà thống lí Pá Tra – cái nợ mà họ trả cho đến hết đời vẫn không thể hết. Mị là một cố gái xinh đẹp, chăm chỉ và có nhiều tài lẻ. Mị hoàn toàn có đủ khả năng để có cuộc tình yêu hạnh phúc, có một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng món nợ từ thời cha mẹ đã trói buộc Mị và hàng vạn đau khổ trên cuộc đời, đến mức đã có lúc Mị muốn chết đi. Nhưng vì lòng hiếu thảo, vì biết rằng mình chết đi thì cái nợ vẫn còn, cha mình sẽ còn khổ hơn bây giờ nên Mị mới đành chấp nhận. Sống trong cái khổ quá lâu, Mị đã mất đi ý thức phản kháng, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa… ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.”

Mị tưởng chừng như sẽ giam chân mình trong căn phòng tối tăm như ngục tù đến hết đời, nhưng sức sống trong Mị vẫn luôn tiềm tàng mãnh liệt. Vì vậy, chỉ cần có một chút tác động ngoại cảnh từ đêm tình mùa xuân đã khiến Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua. Mị bị trói mà như không biết mình bị trói.

Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở đợ, đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày.

Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được thể hiện thông qua các ông dùng những từ ngữ rất tài tình để diễn tả những tiếng nức nở của các nhân vật. Mị được miêu tả lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, cả cuộc đời cô dường như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Cuộc đời Mị cứ như một vòng lặp, quay đều, Mị sống như một thói quen, sống mà mất đi ý thức của một người đang sống. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt.

Ở A Phủ, Tô Hoài thể hiện nỗi thương cảm rất lớn dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Có lẽ nhà văn Tô Hoài đã thương cảm cho hai số phận ấy lắm, dường như ông đã thực sự hoá thân vào nhân vật để cảm nhận nỗi khổ của họ thì mới có thể viết ra những câu văn đẹp đến thế.

Đồng thời, tác giả đã thể hiện niềm trân trọng và đồng tình với khát vọng được tự do, được hạnh phúc của Mị và A Phủ. Người đọc có thể bắt gặp sự trân trọng ấy trước tiên ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. Rồi sức sống ấy cũng hoá thành hành động khi Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Hành động giải thoát cho A Phủ ấy dường như cũng chính là giải thoát cho chính Mị. Từ sự giải thoát trong tiềm thức, niềm khao khát tự do của Mị đã vụt sáng thành hành động. Mị bừng tỉnh và chạy theo A Phủ. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc đời khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân đồng tình cho khát vọng được kiếm tìm hạnh phúc.

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mẫu 7

Ai đó đã từng nhận xét “suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc”. Vợ chồng A Phủ là một trong những thành công lớn nhất của nhà văn Tô Hoài – là truyện ngắn rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” viết vào năm 1953. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đã lên tiếng vì quyền con người, ca ngợi và bảo vệ con người và là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Một tác phẩm có giá trị nhân đạo trước hết phải là một tác phẩm tập trung tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực cậy chức cậy quyền mà đang chà đạp lên quyền sống của con người. Đồng thời tác phẩm đó cũng phải là một tác phẩm nhằm tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Song nhà văn trong tác phẩm cũng phải cảm thông và thấu hiểu được tâm tư tình cảm cũng như những nguyện vọng và mơ ước của con người. Từ đó, giúp họ đấu tranh để giành được ước nguyện của mình. Tất cả điều đó có nghĩa là tác phẩm chỉ có giá trị nhân đạo khi giúp con người sống cho ra con người. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo“ (Nguyên Ngọc).

Cảm hứng chủ đạo được thể hiện chủ yếu ở phần đầu, qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Đọc phần này, chúng ta xót xa cho Mị, cô gái Mèo đẹp người đẹp nết, giàu lòng yêu đời. Nhưng vì bố mẹ nghèo mà phải biến thành “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống ở đây đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sức sống và giàu mơ ước trở thành một con người khắc khổ, sống lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”, thậm chí nhiều lúc Mị cảm thấy mình không bằng một con vật “bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi… con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong cái nhà này thì vùi đầu vào làm việc cả ngày cả đêm”…Mị không chỉ bị bố con A Sử bóc lột về sức lao động mà còn bị chứng hủy hoại cả cuộc sống tinh thần,bị dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng của cô gái trẻ. Đã mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Đã có lúc cô muốn tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên cô không thể chết, đành quay lại cuộc đời nô lệ để trả nợ cho cha.

Không chỉ có nhân vật Mị bị bóc lột mà bên cạnh đó có A Phủ. A Phủ vốn là một thanh niên tràn đầy sức sống, khỏe mạnh, gan dạ, lao động giỏi vậy mà chỉ vì một lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. A Phủ trở thành kẻ đi ở đợ cho nhà thống lí. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà thống lí A Phủ chịu biết bao sự đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần. Để rồi trong gian khổ hai con người này đã gặp nhau ở sự đồng cảm sâu sắc, ở tình thương con người có cùng cảnh ngộ.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện chủ yếu qua cái nhìn đầy yêu thương của nhà văn khi viết về đồng bào các dân tộc miền núi. Những chàng trai cô gái Mèo là những người rất đẹp. Tuy nghèo khổ nhưng họ vẫn dũng cảm, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều này qua những từ ngữ đầy ưu ái Tô Hoài dành cho Mị và A Phủ “ Mị thổi sáo giỏi”, “Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”, “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, còn A Phủ là chàng trai được nhiều người con gái ao ước “ A Phủ khỏe , chạy nhanh như ngựa…”, “biết đúc lưỡi cày , biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Nhà văn còn tìm thấy bên trong họ những phẩm chất tốt đẹp. Mị thà phải lao động vất vả hơn làm con dâu nhà giàu, A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề khóc lóc van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn nhẫn. A Phủ vẫn là con người thực sự. Bên ngoài cái xác không hồn khô cứng của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiềm tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ. Và hơn thế nữa sự yêu thương cưu mang lẫn nhau giữa những người cùng khổ. Mị đã cứu A Phủ và cả hai đã cùng chạy trốn, cùng nương tựa nhau mà sống: “A Phủ nói: “Đi với tôi”. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống núi”. Sức mạnh ở những con người ấy, nếu biết giác ngộ, biết tổ chức lại thì nó sẽ tạo nên sức mạnh diệu kì làm kẻ thù khiếp sợ. Hiểu được điều này, Tô Hoài đã đặt trọn niềm tin vào khả năng cách mạng của Mị và A Phủ.

Bên cạnh hình ảnh vợ chồng A Phủ thật đẹp chan chứa sự thương yêu cảm thông và tin tưởng, Tô Hoài bộc lộ thái độ căm ghét đối với chế độ thực dân phong kiến qua hình ảnh cha con ông thống lí Pá Tra. Lên án cái xấu để bảo vệ cái đẹp cũng là nhân đạo. Tô Hoài đã giúp người đọc hình dung được sự tàn ác, dã man, bản chất bóc lột của bọn thực dân phong kiến khi miêu tả xác thực và sinh động cuộc sống của cha con thống lí.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm, sâu sắc nhất là sự trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người nông dân cùng khổ. Ngòi bút Tô Hoài từng bước rọi sâu khám phá vào miền thân u của thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu tâm tư, nỗi niềm và khát vọng của họ. Không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ; đồng thời vạch ra cho họ con đường giải phóng.

————————————-

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các bạn Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng tham khảo thêm tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.

Lịch thi THPT Quốc Gia 2023

Xem chi tiết lịch thi: Lịch thi THPT Quốc Gia 2023

Gửi đề thi để nhận lời giải ngay: https://www.facebook. com/com.TaiLieuViet