Văn mẫu lớp 9: Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương được TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải. Vũ Nương là người con gái đẹp người đẹp nết sống trong xã hội phong kiến phải chịu số phận oan khuất. Dưới đây là 13 bài văn mẫu để các em tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng sắp tới
Mục Lục
ToggleI. Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp, số phận bi kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ chăm sóc con trai và chăm sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công – dung – ngôn – hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận bi kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng đến thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông tỏng gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ Đau khổ, xót thương trước số phận bất hạnh của nàng sau những điều tốt đẹp nàn dã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khuất của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được minh oan và khiến cho người làm nàng đau khổ là Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, ân hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và giá trị của tác phẩm.
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 2
I. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ và truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương.
II. Thân bài
1. Tóm tắt lại diễn biến câu chuyện
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp.
Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên gia đình luôn hòa thuận.
2. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
– Vũ Nương là người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp.
Khi lấy chồng, luôn giữ gìn mực thước nên gia đình luôn giữ được hòa khí.
– Khi chồng đi lính:
Trước lúc chồng lên đường: Rót chén rượu đầy, dặn dò chống bằng lời lẽ ân cần, dịu dàng “Chàng đi chuyến này …đủ rồi”
Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu đáo.
– Khi bị chồng ngờ vực:
Hết mực giải thích bằng những lời nói nhẹ nhàng: “Thiếp vốn con kẻ khó … nghi oan cho thiếp”.
Biết không thể giải thích được nữa, nàng chọn cái chết để chứng minh tấm lòng của mình.
→ Vũ Nương chính là người phụ nữ điển hình của xã hội xưa.
3. Đánh giá về cuộc đời của Vũ Nương
Không được quyền lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Sự bất công đối với người phụ nữ xưa khi họ phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì chiến tranh. Cuộc sống gia đình chưa được bao lâu thì phải vì chiến tranh mà chia cắt.
→ Hình ảnh Vũ Nương gợi sự cảm thông, thương xót cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
III. Kết bài
Khái quát lại về nhân vật Vũ Nương.
Cảm nhận của người viết về nhân vật Vũ Nương: xót xa cho thân phận.
II. Văn mẫu Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 1
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị đặt dưới quyền của người nam giới, dưới những lề thói của xã hội. Người phụ nữ dù có xinh đẹp, giỏi giang thì vẫn chỉ là phận nữ nhi “tòng phu”, không có tiếng nói. Trong các tác phẩm trung đại Việt Nam, không ít các nhà văn nhà thơ đã dùng lời văn lời thơ của mình để nói lên cái số phận đắng cay ấy của người phụ nữ, làm họ trở thành những hình mẫu điển hình của người phụ nữ truyền thống Việt. Trong số đó, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những người phụ nữ có số phận thật bi kịch trong cuộc đời.
Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ viết về Vũ Nương. Nàng là một người con gái xinh đẹp, nết na, tuy con kẻ khó nhưng được gả cho nhà khá giả, chồng là Trương Sinh. Nàng vốn tính đẹp người đẹp nết, chồng đi lính xa nhà vẫn một lòng thủy chung, chăm sóc mẹ già con thơ chu toàn. Vậy mà, chồng nàng vì một lời nói vô tình của con trẻ mà nghi cho nàng tội danh thất tiết, dù có biện bạch như thế nào, chồng nàng cũng không tin. Để đến cuối cùng, nàng buộc lòng phải lấy cái chết để chứng minh lòng trong sạch của mình. Nhưng may thay, nàng được đức Linh Phi chốn thủy cung cứu vớt. Sau này, khi người chồng đã hiểu rõ nỗi oan của nàng, nàng đã nhờ chàng lập đàn giải oan trên bến sông. Nàng trở về trong hoa đèn, võng lọng, nói lời từ biệt chồng rồi biến mất. Câu chuyện mang đầy sự li kì, ảo diệu, huyền bí nhưng cũng đầy tính nhân văn, chân thật của cuộc đời.
Qua câu chuyện, ta có thể nhận ra, Vũ Nương là một người phụ nữ điển hình trong xã hội xưa của Việt Nam, rất truyền thống, mang đầy những đức tính tốt đẹp. Nàng không chỉ xinh đẹp, nết na, lại đức hạnh, hiếu thảo hơn người, thế nhưng, nàng lại phải chịu những nỗi đau, oan khuất khó lòng gột rửa, mà tất cả đều là do chồng nàng và lề thói xã hội ban tặng. Vậy mà cuối cùng, nàng bỏ qua tất cả, tha thứ cho hết thảy những đau khổ đã đẩy nàng tới đường cùng.
Khi đọc tác phẩm, điều đầu tiên ta có thể cảm nhận được là Vũ Nương là một người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với những phẩm chất thật tốt đẹp. Chỉ bằng vài dòng giới thiệu đơn giản của Nguyễn Dữ, nhưng ông cũng đã khái quát được hết những nét đẹp, tính cách, phẩm hạnh của một người con gái hết mực xinh đẹp ấy. Ông giới thiệu nàng là một người “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ ngần ấy từ thôi, chúng ta đã có thể hình dung ra một người con gái xinh đẹp, với sự dịu dàng, duyên dáng, cùng với tính cách hiền hòa, hết lòng vì chồng vì con. Nàng là người con gái “tuy con kẻ khó” nhưng lại luôn có cách cư xử đúng chừng mực, lễ phép, gia giáo như những tiểu thư khuê các con nhà giàu. Nàng được mọi người yêu mến vì tính cách hiền hòa, chân thành ấy. Đó là những lời kể trước khi nàng lấy chồng, vậy đặt thử nàng vào tình huống cụ thể, khi nàng đã về nhà chồng thì sao?
Khi đã đi lấy chồng, nàng là người luôn luôn gìn giữ ngọn lửa hạnh phúc của gia đình, luôn giữ trọn đạo làm vợ, trọn đạo hiếu làm con. Tuy chồng nàng là một kẻ “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, nhưng nàng vẫn “luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Vũ Nương vẫn là một người con gái như thế, không bao giờ to tiếng, cãi vã với chồng, với mẹ chồng, nàng luôn coi những lời chồng nói, mẹ chồng nói là những lời quan trọng nhất. Nàng đã luôn chu toàn như thế từ khi còn là một người con gái, đến khi làm vợ, làm mẹ, nàng cũng luôn giữ gìn phẩm hạnh, đoan trang, khuôn phép từ trong ra ngoài.
Đến khi chồng đi lính, nàng đã mang thai, nhưng ngày tiễn chồng đi, nàng vẫn ân cần, dịu dàng dặn dò chồng mình với những lời nói đầy tình cảm. Nàng nói: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên là đủ rồi”. Từng lời nàng nói ra đầy ân cần, nhẫn nại, dịu dàng, thắm thiết. Người vợ nào chẳng muốn trở thành một vị phu nhân, chồng được mang ấn phong hầu, trở thành người công danh, nhưng với Vũ Nương, nàng chẳng cần những hư vinh ấy, với nàng, “hai chữ bình yên trở về” mới là quan trọng nhất. Nàng phải yêu chồng, mong ngóng chồng như thế nào mới có thể thốt ra những lời nói tràn đầy ân cần, yêu thương đến như thế?
Đến khi chồng xa nhà, nàng trở thành người lo toan mọi công việc trong gia đình, gánh vác một gia đình to lớn trên đôi vai nhỏ của mình. Chồng nàng ra đi, “xa chồng gần đầy tuần” thì nàng sinh ra một đứa con trai. Nàng một lúc phải gánh trên vai cả mẹ già và con thơ, vậy mà nàng chẳng hề một lời than vãn, vẫn nhất mực lo toan cho gia đình, chăm sóc người mẹ già đang thương nhớ con trai. Mẹ chồng nàng, “vì nhớ con mà sinh ốm”, nàng lại hết lòng chăm sóc, nào là “thuốc thang”, nào là “lễ bái Thần Phật”, rồi lại “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nàng cứ hết mực chăm lo cho người mẹ chồng ốm yếu như thế, lo cho đứa con trai nhỏ thiếu tình thương của cha mà bày trò “chỉ vào vách tường mà bảo rằng đó là cha Đản”. Thế nhưng, đứa con càng lớn thì “bệnh tình ngày một trầm trọng”, bà đã chẳng đợi được con trai trở về đã vội vã quy tiên. Vũ Nương lại một tay lo liệu việc hậu sự cho bà, “nàng hết lời thương xót, phàm là việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với mẹ cha đẻ của mình”. Một người con dâu hiếu thảo như thế phải chăng nên được đền đáp xứng đáng với lòng thành như lời người mẹ già đã trăn trối trước khi chết “trời xanh lòng lành,… xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”?
Mẹ chết, nàng một mình sống với con thơ, vì nhớ thương chồng, thương con, lo con thiếu vắng tình thương của cha mà nàng đã tự chỉ vào cái bóng của mình trên vách tường mà gọi đó là cha Đản – con trai của mình. Đứa trẻ ngây thơ tưởng đó là sự thật mà đâu biết rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong nỗi nhớ thương chồng, thương con của người mẹ trẻ thủy chung? Nó cũng đâu thể hiểu rằng cái bóng chỉ là của mẹ nó và đó là căn nguyên tất cả những bất hạnh sau này của mẹ nó.
Sau ba năm đi lính, Trương Sinh trở về, chưa kịp hưởng niềm vui sum họp hạnh phúc, bi kịch xót xa đã ập đến cuộc đời nàng, mà người gây nên bi kịch ấy không ai khác mà chính là người chồng mà nàng vẫn ngày ngóng đêm mong. Sóng gió lại ập đến thật bất ngờ mà nàng chẳng thể nào hay biết trước được. Mẹ mất, Trương Sinh đau lòng khôn xiết, bế đứa con thơ ra mộ mẹ thắp nén hương thơm. Đứa trẻ quấy khóc, Trương Sinh dỗ dành:”Nín đi con, cha về mà bà đã mất …”. Đứa trẻ ngạc nhiên khi có người nhận làm cha mình, nó bảo cha nó tối nào cũng tới. Chỉ vì câu nói vu vơ đó của đứa trẻ, Trương Sinh đã nghi ngờ sự trong sạch của vợ mình. Vũ Nương nghe thấy, nàng hết lời biện bạch, nhưng Sinh không cho vợ giải thích, chỉ nhất nhất”đánh đuổi nàng đi”. Quá đau xót trước sóng gió bất ngờ ập tới cướp đi bao hạnh phúc của mình, Vũ Nương đã chọn cái chết bên bờ sông bến Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất. Bởi nàng chẳng còn cầu cạnh được ai giải được nỗi oan cho mình, chỉ có cái chết mới chứng minh được lòng trong của nàng mà thôi “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu ….và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Nàng nhảy xuống sông để mong được trời Phật chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình, may thay được đức Linh Phi chốn thủy cung cứu vớt. Đến ngày được lập đàn giải oan để trở về dương thế, những tưởng nàng sẽ chỉ trích, trừng phạt kẻ đã gây ra nỗi oan khuất cao tựa núi của mình nhưng không, nàng vẫn như trước, vẫn là người con gái dịu dàng, nhất mực nết na như thế. Nàng đã chọn cách tha thứ cho chồng – cho kẻ đã gây ra nỗi đau khốn cùng của mình, không những vậy, nàng còn cảm tạ tình nghĩa của Trương Sinh đối với mình:”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nàng quả là một người phụ nữ giàu lòng vị tha.
Vũ Nương – nàng là điển hình của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ truyền thống với dung nhan, phẩm hạnh đều khiến người ta yêu mến. Nàng xinh đẹp, dịu hiền, nết na lại công dung ngôn hạnh, yêu chồng thương con và giàu lòng vị tha như hàng triệu người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
Thế nhưng, xinh đẹp, phẩm hạnh là thế, nhưng cuộc sống của nàng lại suôn sẻ, nàng đã phải chịu nỗi bất hạnh thật to lớn, nỗi đau oan khuất tày trời và chẳng thể hưởng hạnh phúc trọn vẹn của một người phụ nữ.
Vũ Nương vốn “tính thùy mị, nết na, lại thêm tư dưng tốt đẹp”, đáng lẽ ra với dung mạo và phẩm hạnh của mình, nàng đáng được hưởng một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc cùng người phu quân giỏi giang mà nàng yêu mến. Thế nhưng, lề thói xã hội với tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, chỉ với “hơn trăm lạng vàng”, nàng đã phải chịu làm vợ một kẻ “tuy con nhà hào phú, nhưng vô học” – Trương Sinh. Không chỉ là một kẻ vô học, Trương Sinh lại còn là một kẻ “có tính đa nghi quá mức, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Chính điều này là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới bi kịch cuộc đời của Vũ Nương, khiến nàng phải chịu đựng bất hạnh và đau khổ với nỗi oan khuất tày trời. Một người vợ nết na, phẩm hạnh như thế mà lại phải chịu lấy một kẻ vô học, đa nghi như thế, nàng quả thật phải chịu quá nhiều thiệt thòi. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa phải chịu bao sự bất công, tình yêu, hôn nhân, sự lựa chọn người bạn đời, hạnh phúc cả đời cũng không thể tự mình lựa chọn.
Không chỉ phải chịu sự bất công gả cho một kẻ mình chẳng hề yêu thương, Vũ Nương còn phải gánh chịu sự cô đơn, côi cút bởi “cuộc sum họp chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm”. Có lẽ, chính cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy cũng là nguyên cớ cướp đi hạnh phúc mà Vũ Nương một đời theo đuổi. Xã hội phong kiến ấy không chỉ không cho Vũ Nương có cơ hội chọn lựa hạnh phúc của mình mà nó còn cướp đi những niềm vui, hạnh phúc của nàng nữa. Nó khiến nàng vò võ chờ chồng ba năm ròng rã trong nỗi nhớ thương, một mình nuôi con thơ khôn lớn, là lý do khiến nàng phải chịu oan khiên một đời. Giống như người chinh phụ trong khúc “Chinh phụ ngâm” cũng đã mòn mỏi chờ chồng về từ chiến trận như thế:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”
Nhưng có lẽ bi kịch lớn nhất của đời nàng bắt nguồn từ việc nhỏ nhoi nhất, chỉ vì câu nói vô tình của con trẻ mà chồng nàng đã nhất mực nghi ngờ nàng thất tiết. Thủy chung với chồng, mòn mỏi chờ chồng ba năm, trong những giây phút cô đơn ấy, nàng luôn tự lấy cái bóng của mình trên vách tường để đùa vui với đứa con rằng:”Đó là cha của Đản”. Nào ai ngờ rằng, chỉ một lời đùa vui vậy mà đã khiến nàng phải chịu tội thất tiết với chồng. Bởi sở dĩ chồng nàng vốn là một kẻ đa nghi, ghen tuông mù quáng, cho dù nàng có biện bạch, thanh minh, dù là hàng xóm nói giúp, cũng đều bị chồng nàng gạt đi. Trương Sinh nhất mực nghi ngờ vợ mình, ghen tuông một cách mù quáng, hắn “lấy lời nói bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, rồi đánh đuổi đi”. Có lẽ, bất hạnh lớn nhất trong đời Vũ Nương là lấy phải một người chồng như thế. Một người chồng không có một chút tin tưởng vợ mình, luôn nghi ngờ, ghen tuông quá mức. Chính điều đó đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng của cuộc đời. Người phụ nữ đức hạnh ấy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn mới phải, vậy mà nàng phải chịu nỗi bất hạnh quá mức, nỗi oan ức tày trời đến vậy!
Đến mức này, Vũ Nương đã quá đau khổ, cuộc sống của nàng vốn dựa vào chồng, lấy niềm vui của chồng làm niềm vui của bản thân, vậy mà giờ đây, người quan trọng nhất của cuộc đời nàng lại từng bước đẩy nàng tới đường cùng. Vũ Nương đã biện bạch rằng: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa chưa thỏa tình chăn gối …mất nết hư thân như lời chàng nói”. Mỗi lời nàng nói ra đều là những lời chân thật, dù đang bị chồng nghi ngờ, nàng vẫn nhẹ nhàng, ân cần giải thích, vậy mà người chồng “đầu gối tay ấp” với nàng lại chẳng tin nàng lấy một lời. Thật đau khổ biết bao. Chính vì vậy, nàng đã quyết định lấy cái chết để tỏ bày cho sự trong sạch của mình “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu …và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Cuối cùng, ta có thể tóm lại rằng, Vũ Nương – người con gái truyền thống của xã hội Việt Nam là một người phụ nữ không chỉ đẹp người đẹp nết mà còn vô cùng phẩm hạnh, tư dung cao quý thế nhưng, cuộc đời của nàng lại phải chịu bao nỗi đau khổ tột cùng. Nàng không được hưởng cuộc sống hạnh phúc, không có quyền lựa chọn tình yêu, hi sinh vì chồng mà nhận lại là sự ghen tuông tới mù quáng, sự nghi ngờ thất tiết của chồng dành cho mình. Có thể nói, đó là nỗi đau, nỗi oan khiên không gì sánh bằng, và đó cũng là nguyên nhân đẩy nàng tới bức đường cùng – tự vẫn ở bến Hoàng Giang.
Vũ Nương là đại diện cho lớp phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Tuy sinh ra trong nghèo khó lại được gả vào chốn giàu sang, nhưng nàng vẫn luôn hiền dịu, nết na, hi sinh hết mực vì chồng con, gia đình. Nguyễn Dữ đã xây dựng lên Vũ Nương bằng cả yếu tố tự sự và kì ảo nhằm mang đến cho người đọc những cái nhìn toàn diện nhất về số phận những người phụ nữ Việt. Đồng thời, ông cũng muốn qua nhân vật Vũ Nương mà lên án cái xã hội xưa bất công, với những lề thói cổ hủ, những kẻ hào phú vô học đã góp phần đẩy những người phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh vào bước đường cùng, với những nỗi đau khổ, oan khuất, bi kịch một đời.
Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương mẫu 2
Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại cho người đọc những cảm xúc khó quên về số phận người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ cũ. Hình ảnh người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng Nhị Hà để chứng minh sự trong sạch của mình, bị một người đàn ông nghi oan đã khiến người đọc vô cùng xúc động và rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là một cô gái thùy mị đoan trang nhưng vì bị chồng đa nghi. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ nên ông coi trọng tiếng nói và uy quyền của đàn ông hơn phụ nữ nên đã chết oan uổng. Nhà văn Nguyễn Dữ muốn bày tỏ nỗi buồn cho những người phụ nữ xưa qua tác phẩm của mình và thể hiện tinh thần nhân văn của nhà văn.
Vũ Nương tên đầy đủ là Vũ Thị Thiết, là một cô gái nết na, xinh đẹp, thông minh được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Những năm nàng xuân, một chàng trai tên Trương Sinh, xuất thân từ một gia đình đơn thân chỉ có một mẹ một con, đến xin một trăm lạng vàng để cưới nàng.
Hôn nhân xưa cho rằng người phụ nữ không có quyền quyết định số phận và hạnh phúc tương lai của mình. Nàng cũng có suy nghĩ và cá tính riêng, nhưng chuyện tiến tới hôn nhân và hạnh phúc trăm năm thì cần phải nghe lời bố mẹ hai bên. Cô được Trương Sinh hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu Trương Sinh, Vũ Nương luôn là người con dâu thảo, đảm đang, đảm đang, chưa bao giờ để nhà chồng trách móc điều gì. Vũ Nương luôn chu đáo từ trong ra ngoài. Từ xưa đến nay hiếm có người con dâu như nàng. Vũ Nương và Trương Sinh cũng thống nhất là không bao giờ to tiếng hay bất đồng quan điểm bởi Vũ Nương luôn coi trọng lời nói của chồng và mẹ chồng nhất. Với bản tính ngoan ngoãn, hiền lành, nết na, Vũ Nương luôn giữ được hạnh phúc gia đình êm ấm.
Hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải tòng quân đánh giặc nơi trận mạc, còn Vũ Nương thì luôn theo đạo hiền thục, đảm đang, phụng dưỡng mẹ chồng, đảm đang. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương vẫn đợi chồng, chung thủy trước sau như một. Thậm chí không yếu đuối với bất kỳ ai. Nhưng chẳng bao lâu Trương Sinh ra đi thì mẹ vợ lâm bệnh, dù đã cố gắng uống thuốc nhưng bà cũng không qua khỏi mà qua đời, để lại Vũ Nương một mình với đứa con thơ dại.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày chờ Trương Sinh trở về. Trong nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường soi bóng chàng trên vách để báo cho con trai biết cin cũng có ba. Một cậu bé rất ngây thơ. Nó đâu biết đó chỉ là cái bóng của mẹ nó.
Chiến tranh kết thúc, ngày Trương Sinh trở về, Vũ Nương vui mừng tưởng chừng bao năm một mình chờ đợi nơi chồng đã được đền đáp. Nhưng cơn bão đang chuẩn bị ùa đến. Khi về đến nhà nghe tin mẹ mất, Trương Sinh vô cùng đau buồn, chàng liền dắt con ra mộ mẹ thắp nén hương cầu cho mẹ được bình yên. Nhưng cậu bé khóc không chịu nín, nhất quyết không nhận Trương Sinh là cha. Thằng bé lại bảo bố nó thường hay đến mỗi tối.
Trương Sinh nóng nảy, ghen tuông và đa nghi quá nên vội tin lời con, không một lời giải thích mà còn tức giận đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể giải thích được sự trong trắng của mình, Vũ Nương đã gieo mình xuống sông Nhị Hà tự tử. Đứng trước nỗi bất công quá lớn ấy, Vũ Nương không còn sống được trên cõi đời này nữa.
Người con gái Vũ Nương ấy đã phải chết một cách oan uổng và đáng thương biết bao. Nhưng giá trị và đức độ cao cả của Vũ Nương đã làm rung chuyển đất trời. Cuối cùng khi Trương Sinh một đêm không ngủ nhìn chằm chằm vào bức tường, người con nhìn thấy bóng cha liền vui vẻ gọi “Cha”. Trương Sinh biết mình có lỗi với vợ nhưng hối hận thì đã quá muộn. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu sống rồi lập đàn giải oan thì nàng đã bay về trời để tránh những đau khổ, bất hạnh của nhân gian.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, một kẻ luôn dùng quyền hành để áp bức phụ nữ, gây ra bao nhiêu tổn thương, bất công cho phụ nữ. Nhân vật Vũ Nương là một cô gái hiền lành, nhân hậu, là hình mẫu của nhiều phụ nữ. Nàng là người đức hạnh, hiền lành, Nàng ân hận vì cuộc đời đã không cho Nàng gặp được người chồng tốt và để Nàng tự quyết định hạnh phúc của đời mình.
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương mẫu 3
Chúng ta ai cũng biết hoặc đã từng nghe câu “Ở hiền gặp lành”, cứ sống tốt sẽ sớm có được những điều tốt đẹp. Nhưng thực tế không phải lúc nào cũng được như vậy. Có rất nhiều người dù họ có ngoại hình, có nhân phẩm nhưng cuối cùng cuộc sống của họ gặp phải nhiều đau khổ, thậm chí là phải tìm đến cái chết để giải oan cho mình. Tấm gương tiêu biểu cho số phận hẩm hiu mà ta không thể không nhắc đến chính là Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương.
Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ là một tác phẩm văn học tiêu biểu của giai đoạn văn học trung đại nói về người con gái xinh đẹp, đầy đủ công dung ngôn hạnh nhưng số phận hẩm hiu phải tự mình tìm đến cái chết để giải thoát cho mình. Ở Vũ Nương, hội tụ nhiều vẻ đẹp phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ khiến con người ta phải suy ngẫm.
Vũ Nương hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Dữ trước hết là người phụ nữ xinh đẹp, hiền dịu nết na, đầy đủ công dung ngôn hạnh. Nguyễn Dữ khắc họa Vũ Nương là người con gái xinh đẹp có tiếng ở vùng mà nhiều chàng trai ước ao, khao khát có được. Tuy nhiên, người phụ nữ trong xã hội bấy giờ không được tự mình lựa chọn số phận, tất cả do cha mẹ sắp đặt. Nàng đành an phận nghe theo, người nàng gả cho là Trương Sinh, chàng trai giàu có nhưng ít học và có tính đa nghi. Hiểu được tính chồng và chấp nhận số phận của mình, Vũ Nương luôn cố gắng hoàn thành thật tốt bổn phận một người vợ hiền, một nàng dâu thảo, giữ cho gia đình luôn hòa thuận, hạnh phúc.
Vũ Nương cũng là người hết mực yêu thương gia đình. Những ngày tháng làm dâu, nàng luôn hiếu thuận với cha mẹ. Từ khi chồng ra trận, nàng ở nhà hết lòng phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ chồng, lo toan ma chay tươm tất cho cha mẹ khi họ qua đời với tấm lòng chân thành nhất của mình.
Bên cạnh đó, nàng còn là một người vợ chung thủy, khao khát có được hạnh phúc gia đình. Trong suốt quãng thời gian vợ chồng chia cắt, nàng luôn đau đáu mong chồng trở về lành lặn, bình an để gia đình đoàn tụ. Vì nhớ thương chồng, nàng đã trỏ bóng mình trên tường và bảo đó là chồng mình để an ủi con trai, để nó cảm nhận được tình cảm gia đình. Có thể nói tấm lòng mà Vũ Nương dành cho gia đình thật đáng khâm phục và ngưỡng mộ.
Vẻ đẹp nhân cách của nàng còn được thể hiện rõ nét qua lúc bị Trương Sinh nghi oan cho mình. Nàng kiên nhẫn giải thích dù cho không được lắng nghe. Khi biết mình không thể cứu vớt được gia đình này, được cuộc hôn nhân này, nàng đành cam chịu bị đuổi đi mà không một lời than oán. Khi biết danh dự, nhân phẩm của mình bị xâm phạm nặng nề, nàng đành tìm đến cái chết để giải oan cho mình, kết thúc số phận ở nhân gian của một người con gái xinh đẹp, có nhân cách cao thượng. Đến đây ta không khỏi xót xa trước những khó khăn, đau khổ mà nàng phải trải qua và tiếc thương cho một số phận hẩm hiu.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng nhân vật Vũ Nương nói riêng và Chuyện người con gái Nam Xương nói chung vẫn gây ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc và để lạ nhiều giá trị nhân văn cao đẹp. Mãi đến sau này, chúng ta vẫn không ngừng yêu quý, cảm mến người con gái xinh đẹp, đạo đức nhưng bất hạnh đó và lấy đó làm bài học sâu sắc cho chính bản thân mình.
Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương mẫu 4
Chúng ta thường nghe luật nhân quả trong cuộc sống, rằng cứ sống tốt thì sẽ được bình an, hạnh phúc. Nhưng thực tế không phải vậy, có rất nhiều trường hợp tuy họ là người có cốt cách, sống tốt bụng, chính trực nhưng cuộc đời lại vô cùng éo le và không có được cái kết có hậu cho chính cuộc sống của mình. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến chính là Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ.
Vũ Nương trước hết là người phụ nữ xinh đẹp, công dung ngôn hạnh, với vẻ đẹp và đạo đức của nàng chắc hẳn chúng ta ai cũng sẽ thấy nàng xứng đáng có được một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh – một chàng trai gia đình có điều kiện trong vùng nhưng lại có thói hay ghen tuông và ít học. Có thể thấy, chúng ta cũng đã dần mường tượng ra được cuộc sống ở nhà chồng của nàng, vinh hoa phú quý có nhưng nàng phải luôn sống dè dặt, thận trọng để tránh những va vấp trong cuộc sống gia đình với chồng.
Vũ Nương là một người phụ nữ yêu chồng, yêu gia đình và là một người con dâu hiếu thảo. Biết chồng có tính hay ghen, nàng luôn giữ gìn đức hạnh của mình để gia đình hòa thuận. Ngày chồng ra trận, nàng vô cùng xúc động, không cần chồng mang vinh hoa phú quý, chỉ cần chồng bình an quay trở về bên mình, có thể thấy, đối với nàng, người chồng quan trọng hơn giá trị vật chất rất nhiều. Suốt những năm tháng xa chồng, nàng ở nhà một lòng một dạ vun vén gia đình, chăm sóc bố mẹ chồng hết lòng. Ngày họ qua đời, nàng lo ma chay tươm tất, hiếu thảo khiến ngay cả bố mẹ chồng cũng cảm mến trước tấm lòng thảo thơm. Những ngày chồng xa nhà, nàng mang thai và một mình sinh đẻ, nuôi con khôn lớn, biết con nhớ cha, nàng đành chỉ bóng mình trên tường và bảo với con đó là cha để con nguôi ngoai phần nào nỗi nhớ. Quả thực, vẻ đẹp cốt cách của Vũ Nương không một mĩ từ nào có thể lột tả hết.
Đến khi chồng trở về, trong cơn ghen tuông đã không tiếc lời mắng nhiếc nàng nhưng nàng vẫn cố gắng giải thích cho chồng hiểu. Khi không lấy được niềm tin từ người chồng đa nghi, nàng chỉ còn cách chọn cái chết để bảo vệ phẩm hạnh của mình. Cuộc đời của người phụ nữ đáng lẽ được hưởng vinh hoa phú quý đã kết thúc như thế đó, vô cùng tội nghiệp và đau xót. Cái chết cũng là cách duy nhất khi một người bị đẩy vào bước đường cùng có thể bảo vệ chính mình.
Khi ở dưới thủy cung, nàng vẫn không giây phút nào ngừng nhớ về chồng, về con, về gia đình. Khi nghe Phan Lang khuyên nhủ, nàng đồng ý quay trở lại gặp chồng và con lần cuối để trở về sống ở thủy cung. Nỗi oan khuất của nàng được minh bạch, được giải đáp sau những ngày tháng muộn màng, nàng cũng không trở về nhân gian để sống tiếp những ngày tháng làm người vợ hiền nữa. Có thể thấy, câu nói “hồng nhan bạc mệnh” như vận vào chính con người của nàng, từ đây ta thêm đồng cảm, thấu hiểu và yêu thương nhân vật này cũng như xem xét lại cách sống, cách phán đoán người khác của chính mình.
Vũ Nương nói riêng và Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc, độc đáo trong lòng độc giả về số phận con người trong xã hội cũ – nơi họ không được lựa chọn cuộc sống của chính mình. Từ đây ta thêm yêu quý những số phận đó cũng như rút ra cách sống cho chính bản thân mình để ngày càng hoàn thiện hơn.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 5
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Hình ảnh người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông Nhị Hà để chứng minh sự trong trắng trinh bạch của mình, khi bị chồng nghi oan, khiến cho người đọc vô cùng cảm động, rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là người con gái thùy mị, đoan trang nhưng do tính đa nghi của người chồng. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, coi trọng tiếng nói, uy quyền của người đàn ông hơn phụ nữ đã khiến cho nàng phải chết oan khuất như vậy. Thông qua tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn bày tỏ niềm xót xa với những người phụ nữ thời xưa, thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả.
Vũ Nương tên cha mẹ đặt cho nàng là Vũ Thị Thiết, vốn là người con gái nết na, xinh đẹp, khéo tay được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Nhưng năm nàng tròn đôi chín, có chàng trai tên Trương Sinh, gia cảnh neo đơn, nhà chỉ có một mẹ một con đến xin hỏi cưới làm vợ với giá một trăm lạng vàng.
Chính trong phong tục cưới vợ ngày xưa đã cho thấy người phụ nữ không hề có quyền quyết định vận mệnh tương lai, hạnh phúc của mình. Nàng tuy là một con người có suy nghĩ, tính cách của riêng mình nhưng chuyện cưới hỏi, chuyện hạnh phúc trăm năm nàng lại phải nghe lời cha mẹ hai bên. Nàng được hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng chẳng khác nào được bán với một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu, làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn hiếu thuận với mẹ chồng, là người vợ hiền dâu thảo, không để gia đình chồng chê trách điều gì. Nàng luôn chu đáo lo toan trong ngoài. Từ xưa tới nay những người con dâu như nàng thật hiếm thấy. Nàng và Trương Sinh cũng tâm đầu ý hợp không bao giờ xảy ra to tiếng, cãi vã bất hòa bởi Vũ Nương luôn coi lời chồng và mẹ chồng là quan trọng nhất. Với đức tính ngoan hiền, dịu dàng, thùy mị nết na của mình Vũ Nương luôn giữ gìn gia đình của mình hạnh phúc ấm êm.
Những hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải gia nhập quân ngũ đi đánh giặc ngoài chiến trường, khi mà Vũ Nương vừa luôn giữ trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, nàng chăm sóc mẹ chồng, giữ gìn đức hạnh mới mang thai. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương chờ chồng, thủy chung trước sau như một. Không một chút tà tâm, hay có lòng dạ không chung thủy, yếu lòng với ai đó. Nhưng chẳng bao lâu khi Trương Sinh đi xa, mẹ chồng của nàng ốm bệnh, dù đã cố gắng chạy chữa thuốc thang nhưng bà không qua khỏi mà mất đi, bỏ lại Vũ Nương một mình với đứa con nhỏ.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày, chờ ngày Trương Sinh trở về. Nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên tường nói với con trai đó chính là ba con đó. Thằng bé ngây thơ tưởng thật. Nó đâu biết rằng đó chỉ là cái bóng của mẹ nó mà thôi.
Chiến tranh kết thúc ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết, những tưởng năm tháng chờ chồng nuôi con một mình đã được báo đáp. Nhưng sóng gió đã ập đến với nàng một cách không ngờ. Khi về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương Sinh đau xót vô cùng, anh chàng liền bế con trai của mình đi ra mộ mẹ thắp hương cho mẹ yên lòng. Nhưng thằng bé cứ khóc mãi không chịu nín nó nhất định không chịu nhận Trương Sinh là cha. Nó bảo cha nó tối nào cũng tới.
Trương Sinh nóng tính, hay ghen, lại quá đa nghi nên vội vã tin lời con trẻ, không cho vợ được giải thích mà đùng đùng nổi giận đuổi vợ ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể thanh minh sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn. Trước nỗi oan khuất quá lớn Vũ Nương không thể nào sống tiếp trên cõi đời này được nữa.
Người con gái tên Vũ Nương đó đã phải chết trong oan khuất, tủi hờn như vậy. Nhưng do phẩm giá cao quý và đức hạnh của nàng đã làm trời đất cảm động. Cuối cùng thì nàng cũng được giải oan, khi mà Trương Sinh trong một đêm không ngủ ngồi soi bóng mình trên tường thì con trai anh nhìn thấy nó vui mừng nói lớn “Cha con đó”. Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ nhưng hối hận thì đã muộn màng. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu giúp rồi được lập đàn siêu thoát bay về trời làm tiên nữa, thoát kiếp con người khổ đau bất hạnh.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là người con gái hiền dịu nết na, là tấm gương cho nhiều nhiều phụ nữ noi theo. Cô là người đức hạnh, hiền thục rất tiếc rằng cuộc đời lại không cho cô gặp được một người chồng tốt, không cho cô được quyết định hạnh phúc của đời mình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 6
Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, xinh đẹp. Cuộc đời của Vũ Nương thật là ngắn ngủi, nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải gánh bao vất vả phải sinh nở và nuôi con một mình chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ mất lo toan như cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu. làm vợ, làm mẹ.
Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng ước mong người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị. Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Còn Vũ Nương chẳng ham công danh, võng lọng chỉ xin ngày về mang theo hai chữ “bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, xem đó là tất cả của cuộc đời mình.
Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không ngờ lại có một cuộc chia li vĩnh viễn.
Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại nói: Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít… Trương Sinh gặng hỏi con, thì đã được bé Đản nói rõ ràng: Cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi theo, vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia đình mình.
Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Trương Sinh không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương Sinh mất lí trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ còn một con đường lấy cái chết để giãi bày lòng mình.
Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: Chiến tranh li tán, vợ phải xa chồng tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương mẫu 7
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng”. Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng”. Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng “cha Đản lại đến” không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
(Trích “Chinh phụ ngâm” – Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất khó dung hòa vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng “hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn”. Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ” là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình – nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”. Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 8
Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc sống ở thời kì chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó tiêu biểu là Chuyện người con gái Nam Xương và nhân vật Vũ Nương.
Theo lời kể của tác giả ngay từ đầu tác phẩm thì Vũ Nương là một người con gái thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp. Và những phẩm hạnh ấy đã được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, vốn là một người ít học, lại có tính đa nghi, phòng ngừa quá mức. Vì thế, nàng đã biết lựa tính chồng, giữ cho khỏi bất hòa, gia đình luôn được trong ấm, ngoài êm. Thế rồi đất nước xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải đi lính, nàng lại càng bộc lộ rõ hơn phẩm chất tốt đẹp của mình. Lời nói, lời dặn dò trong cảnh tiễn chồng của nàng đã khiến mọi người cảm động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên.
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng sinh con, quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc mẹ già đau ốm. Đặc biệt khi người mẹ mất, nàng dã lo ma chay chu đáo như với cha mẹ của mình. Qua lời trăng trối của bà mẹ trước lúc lâm nguy khẳng định công lao, nhân cách của Vũ Nương đối với gia đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”.
Thực tế oan nghiệt đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với đức hạnh của người phụ nữ. Những lời bênh vực của bà con hàng xóm cùng những lời phân trần giãi bày hết sức thê thảm không cứu được nàng thoát khỏi nỗi nhục nhã, Vũ Nương đã quyết liệt tìm đến cái chết để bảo toàn danh dự của mình. Nàng đã gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời người phụ nữ bất hạnh.
Qua việc xây dựng bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ xót xa thương cảm cùng niềm trân trọng đối với người phụ nữ, phản ánh bi kịch chung về số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Truyện đã in sâu đậm vào trái tim người đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 9
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam – của “chiếc bánh trôi” trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “luôn giữ gìn khuôn phép… thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong… thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu… phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến) qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người – của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 10
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng “miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa, vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút đầy trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt.
Tên nàng là “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”, đã đẹp người lại đẹp nết. Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao loạn lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình chăm sóc mẹ chồng, lo tang khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình, nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương. Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã “âm dương đôi đường”. Nhưng hình ảnh Vũ Nương không dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp hoàn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: “tư dung tốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên chàng Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, sống rất mực tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình. Thế nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Trong gia đình chồng, nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thế là, “hạnh”, một trong những tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông hiểu, am tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu dàng như vàng như ngọc. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời nói của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời thoại, từ “ngôn” của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Thời xưa, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình”, như tô đậm tình yêu thương của nàng đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi người. Vậy là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã khiến bao gia đình ly tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ. Tất cả mọi việc trong nhà đều trông cậy vào nàng. “Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản”. Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song nàng vẫn nuôi nấng, dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con và cũng một mình lo ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi, bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn. Rồi chiến tranh cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương, được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người cha. Thế là nàng đã chỉ bóng mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy chẳng phải vì nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ: “Trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn là tên thất học, lại thêm “tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Lời nói ngây thơ của bé Đản chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực “đinh ninh là vợ hư”. Chàng không còn đủ bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra nguyên cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thoáng chốc hóa một kẻ vũ phu, thô bạo, “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vượt qua được mọi gian lao, vất vả trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng phong kiến. Chính cái gia đình “chồng chúa vợ tôi”, “phu xướng phụ tùy” ấy đã khiến nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả “tam tòng tứ đức” lại phải mang tiếng xấu “hư thân mất nết”. Mọi lời mắng nhiếc của Trương Sinh như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo những “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”. Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào đường cùng không lối thoát. Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không cho nàng chạm tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” một lần duy nhất trong đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng bởi “tình ngay lý gian”. Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất của mình từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không hề biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong chế độ phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với dương gian. Nhưng ở chốn “làng mây cung nước”, Vũ Nương chẳng thể nào nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu kỳ nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của một người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn thủy cung, Vũ Nương “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện”. Nhưng xót xa thay, nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nỗi oan tình của nàng đã được minh oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh phúc “nghi gia nghi thất”, chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 11
Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ.
Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung.
Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. Ở đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ không gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển.
Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 12
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó “người con gái Nam Xương” dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.
Mở đầu trang truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái: “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”. Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách “môn đăng hộ đối” – một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc “chưa từng xảy ra thất hòa”. Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắt với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường “vinh hoa phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui “nghi gia nghi thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm – cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! Thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ cả đời hy sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh – một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu. Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng “phòng ngừa quá sức”, lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện “chiếc bóng” qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã “đinh ninh” là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.
Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ “Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ vu lại ghen tuông, độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.
Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một bản lề của truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương – một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Tóm lại, “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay – tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha – tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ – những người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 13
Từ thuở xa xưa, người phụ nữ được cho là những người chân yếu tay mềm, chỉ biết phụ thuộc, chẳng làm được cái tích sự gì, bị khinh bỉ rẻ rúm, bị đàn áp dưới chế độ nam quyền. Nhưng chính họ lại luôn là đề tài phổ biến, truyền cảm hứng sáng tác cho các tác giả trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương- một người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp oan nghiệt và có cuộc đời bất hạnh- đã được tác giả Nguyễn Dữ khắc họa thành công qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”
Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ hội tụ nhiều nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan hệ ở từng hoàn cảnh khác nhau. Khi còn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét tính cách thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp nên nàng được người người quý mến. Sau khi được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung son sắt, hết lòng chăm lo cho gia đình nhỏ. Biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép lễ nghi, không để xảy ra bất hòa. Ngày tiễn chồng lên đường ra nơi biên ải, Vũ Nương như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Với lời dặn dò của nàng, ta thấy Vũ Nương không hề mong được vinh quang hiển hách mà chỉ cầu sao cho chồng được bình an. Không chỉ vậy, nàng còn cảm thông với những vất vả khó khăn mà sau này chồng mình sẽ phải chịu đựng phía trường chinh.
Những năm tháng xa chồng, Vũ Nương không những nhớ thương mà còn thủy chung chờ chồng trở về:” Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại năm, nỗi nhớ chồng của nàng chưa có khi nào có xu hướng giảm, cứ kéo dài theo năm tháng:” Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn, hiếu thảo. Mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng chăm sóc tận tịu chu đáo, lo thuốc thang trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng dùng lí lẽ ngọt ngào khuyên lơn để mong bệnh tình của bà mau qua. Biết mình chẳng thể tiếp tục cõi đời, bà mẹ chồng đã kịp thời trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về nhân cách, công lao đức độ của Vũ Nương đối với bà:” Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng mất, nàng một mình một thân lo việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Tấm gương tần tảo nghĩa hiếu ấy khó ai mà có được trong hoàn cảnh côi cút, vất vả như nàng.
Trong quan hệ với con, Vũ Nương là người mẹ lành đảm đang hết lòng yêu thương con, một mình nuôi con với tất cả tình yêu nàng gom góp của mình và của người cha đứa bé nơi chiến trường vì sợ con thiếu thốn tình cảm. Những đêm con khóc, nàng thường dỗ dành con bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách tường và nói đó là cha nó.
Không những thế, Vũ Nương còn là người trọng danh dự, nhân phẩm. Điều này được thể hiện qua tình huống khi nàng bị nghi oan, Vũ Nương hết mình tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng phương pháp phân trần, giải thích. Hình ảnh nàng trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang đã khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng của nàng. Khi đã quy tiên, sống yên ổn ở một thế giới khác, Vũ Nương không nguôi nhớ về nơi trần tục, về chồng con, về quê hương đất tổ và mong được giải oan.
Như vậy, Vũ Nương quả là một người phụ nữ đẹp nết đẹp người, tháo vát đảm đang, hiếu thảo, thủy chung, hết lòng bồi đắp hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của nàng như ánh hào quang tỏa sáng ngay cả khi đã về nơi chín suối. Thật đáng trân trọng và cảm phục biết bao!
Một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc nhưng nàng lại gặp số phận cay đắng trái ngang đầy oan nghiệt và có cuộc đời vô cùng bất hạnh. Đầu tiên, Vũ Nương là nạn nhân của tư tưởng phong kiến nam quyền, hôn nhân bị mua bằng tiền bạc, không tình yêu. Mặt khác, cuộc sống hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh có phần không bình đẳng vì Vụ Nương là:” con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm dâu. Sự cách bức giàu nghèo đã tạo thêm cái thế cho Trương Sinh – người đàn ông gia trưởng trong một gia đình giàu có dưới xã hội phong kiến – để hắn có thể dễ dàng chà đạp lên thân phận Vũ Nương.
Cái thứ hai, Vũ Nương là nạn nhân của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. GIa đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải” chia phôi vì động việc lửa binh”. Những ngày ở nhà, Vũ Nương mòn mỏi đợi chờ chồng, ngóng trông đầy thương nhớ như nàng vọng phu hoài cổ. Ngày sum họp lại là ngày” bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao liễu tàn trước gió”. Do có tính đa nghi lại thêm lời con trẻ nói nên bỏ ngoài tai lời vợ phân trần, bà con hàng xóm bênh vực. Đó là lí do mà Trương Sinh luôn miệng mắng nhiếc, chửi rủa, đuổi đánh, dồn đẩy nàng đến cái chết đầy đau thương. Thật xót xa cho nàng! Chỉ vì lời nói của con trẻ, chỉ vì anh chồng hồ đồ ghen tuông bóng gió, độc đoán mà phải kết liễu cuộc đời.
Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm” Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội xưa và cũng là lời tố cáo về xã hội phong kiến nam quyền ngày xưa. Từ đó cho thấy sự cảm thông cho số phận Vũ Nương của tác giả tài hoa Nguyễn Dữ.
……………………………………………………………..
Ngoài Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương. Mời các bạn học sinh còn có thể tham khảo thêm Soạn văn 9, soạn bài 9 mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 2 lớp 9 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn. Chúc các bạn học tốt
Đặt câu hỏi về học tập, giáo dục, giải bài tập của bạn tại chuyên mục Hỏi đáp của TaiLieuViet | |
Hỏi – Đáp | Truy cập ngay: Hỏi – Đáp học tập |
-
Đóng vai Vũ Nương kể lại lúc đón Trương Sinh trở về từ chiến trường.
Ngày hỏi: 14:05 10/10 2 câu trả lời
-
Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
Ngày hỏi: 16:28 29/09 5 câu trả lời
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)