Văn mẫu lớp 9: Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán dưới đây được TaiLieuViet.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Mục Lục
Toggle1. Bình giảng đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán mẫu 1
Một trong những đoạn trích nói lên tính cách và lòng người của nhân vật Thúy Kiều là đoạn trích”Thúy Kiều báo ân báo oán”. Khi được Từ Hải cứu giúp khỏi phận long bong, bạc nổi thì cũng chính là lúc Kiều được cất lên tiếng nói của mình.
Để nói hết tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” mà dân gian thường nói để tô điểm cho con người của Thúy Kiều. Khi như được hồi sinh lần nữa, Kiều đầu tiên đã nghĩ đến là phải báo ân cho những người đã giúp đỡ mình trong con đường chông gai mà Nàng đã trải qua.
Đó là sự báo ân đối với Thúc Sinh:
“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non….
Tại ai, ai há phụ lòng cố nhân”
Nàng không đổ lỗi những gì mình trải qua, mình khó khăn, mình bị đày đọa thân xác là do Thúc Sinh. Hoàn toàn không, Nàng hiểu chuyện cuộc đời mình không phải do Thúc Sinh gieo bao cay đắng tủi nhục.
Vì thế, Nàng luôn giữ mực, tỏ thái độ biết ơn đối với người đã giúp mình giữa lưng bước đường cùng. Với cách suy nghĩ của Nàng “trọng nghĩa ” là trọng những gì người đã làm vì Nàng không phải cứ nhất thiết không làm đến nơi đến chốn mà Nàng phủ sạch tất cả những công lao đó.
Khi đối thoại với Thúc Sinh, Nàng dùng ngôn ngữ xưa là “chàng” chứ không đặt quyền thế của nàng hiện tại mà ra vẻ. Qua đây, cho ta thấy được một Thúy Kiều không những nhan sắc hoàn mĩ mà có một tấm chân tình son sắt đối với những người giúp đỡ mình.
Báo ân đã xong, đến lượt Nàng nghĩ đến những gì mình đã trải qua; đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau rỉ máu tận tâm hồn Nàng. Nàng báo oán đối với người phụ nữ độc ác, mưu mẹo không ai khác đó chính là Hoạn Thư:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây…
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”
Vẫn là lối xưng cũ đối với Hoạn Thư, Nàng xưng với người phụ nữ đó hai chữ”tiểu thư”. Thúy Kiều không những giữ đúng phép lịch sự trong đối thoại mà còn tỏ ra một cách tinh tế. Nàng nói đến nỗi cay nghiệt của người phụ nữ đó đã dấn thân lên con người Nàng, làm nhơ nhuốc vẻ đẹp vốn có của Nàng.
“Rằng: Tôi chút phận đàn bà…
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
Nhưng với sự toan tính, mưu mẹo cách đối thoại của Hoạn Thư làm cho Kiều không những trị tội mà còn tha tội. Bởi vì cách nói lươn lẹo của người phụ nữ nham hiểm đó đánh vào tâm trí của một cô gái bản tính lương thiện, dùng tình người để trị tình người chứ không phải một cách quá ác độc.
Nguyễn Du đã vẻ nên một Thúy Kiều mang đậm vẻ đẹp nhân hậu. từ bi của con gái Việt nam nói chung.
Đoạn trích đã làm rõ nên một Thúy Kiều với tấm lòng đầy nhân ái, một tấm lòng khoan dung vô cùng. Chỉ qua mấy câu thơ mà nói hết được vẻ đẹp tính cách của nhân vật chúng ta càng thán phục ngòi bút của Nguyễn Du
Trên hành trình lưu lạc của cuộc đời, Kiều đã phải nếm đủ mọi điều cay đắng, tủi nhục “hết nạn nọ đến nạn kia” đã đẩy nàng vào con đường tuyệt vọng. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, Từ Hải xuất hiện như một làn gió mới làm thay đổi đời Kiều – Từ Hải, người anh hùng cái thế không những cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống lầu xanh còn đưa nàng từ thân phận thấp hèn lên địa vị của một quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện việc “đền ơn trả oán”. Đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều đền ơn những người đã cưu mang giúp đỡ nàng, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.
Cảnh “báo ân báo oán” là đỉnh điểm diễn biến của cốt truyện được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu (từ câu 2289 đến câu 2450). Những đối tượng được đền ơn là Thúc Sinh, mục Quan gia, Sư vãi, Giác Duyên. Những tên báo oán là Hoạn Thư, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Ưng Khuyến, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh. Đoạn trích giảng đã được lược bớt, chủ yếu nói rõ việc Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh và trả oán Hoạn Thư.
Nhân vật cuộc chuyện trò thân mật, Thúy Kiều kể hết mọi nỗi gian truân của mình. Từ Hải nổi giận cho quân đi bắt cóc các tên tội phạm, đồng thời cùng cho mời những người có ân nghĩa rồi giao cho Kiều tự đứng ra xét xử “đền ơn trả oán”.
Phiên tòa được mở ra đầy đủ “ba quân” gươm lớn giáo dài tua tua, sáng quắc, hàng trong hàng ngoài, vệ nọ, cơ kia.. Trong quang cảnh oai nghiêm đó, Kiều được Từ Hải trao quyền chủ động xét xử theo một trình tự rõ ràng: đền ơn trước, báo oán sau.
Thúc Sinh được mời tới nơi xử án đầu tiên “cho gươm mời đến Thúc lang”. Trước phong canh oai nghiêm của phiên tòa, Thúc Sinh hoảng hốt tới mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đổ mình dường dè run”. Thúc Sinh sợ có lẽ vì tính khí của Thúc Sinh nhút nhát, ngay cả việc bảo vệ người mình yêu cũng không làm được để cho Hoạn Thư tha hồ ra tay hành hạ Kiều. Hơn ai hết, Thúc Sinh ý thức đầy đủ về vấn đề đó nên nỗi sợ hãi của chàng đã đẩy lên đến cao độ. Nhưng dù sao thì ở Thúc Sinh vẫn được xem là ân nhân của Kiều, vì Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi bùn nhơ ở Thanh lâu để cưới nàng làm vợ lẽ và tạo cho Kiều có những ngày hạnh phúc của cuộc sống gia đình êm ấm. Với một con người phúc hậu như Kiều, nàng rất cảm thông nỗi bất lực của Thúc Sinh và không thể quên ơn chàng được. Thực ra Kiều không luận tội Thúc Sinh mà lại càng tỏ ra trân trọng chàng. Trong cuộc tình chồng vợ (dù là vợ lẽ) Thúy Kiều vẫn cho đó là “nghĩa nặng nghìn non” thì làm gì có chuyện phụ lòng. Nàng đặt mình vào những ngày xưa cũ trong quan hệ thân mật, trân trọng, thủy chung nên mới có cách dùng những từ “người cũ”, “cố nhân”, “nghĩa”, “tạ lòng”, và điển cố “sâm thương”. Cách nói này phù hợp với tính cách của Thúy Kiều. Chính đó mới là vẻ đẹp của công bằng lý tưởng, của công lý nhân dân, kể cả việc đền ơn bằng “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” mà cho là: “tạ lòng để xứng báo ân gọi là”. Đây là nét đẹp trong quan niệm của Kiều. Tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân đo được. Đối với Thúc Sinh, Kiều đặc biệt thông cảm, chia sẻ. Kiều hiểu rõ nỗi đau khổ của nàng không phải là do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư. Chính vì vậy mà khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng đang còn quá xót xa. Khi nói về Hoạn Thư giọng Kiều thay đổi hẳn, đó là giọng điệu của một quan tòa có hàm ý mỉa mai đe dọa:
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”
Nguyễn Du cực kì khéo léo trong việc sử dụng một cách hiệu quả nhất những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” để thể hiện hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân nên ngôn ngữ cũng thật nôm na, bình dị theo cách nói của nhân dân.
Tiếp đến là cảnh Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư. Không khí phiên tòa đã thay đổi hẳn. Cái giọng ân tình, dịu hiền, đằm thắm của người con gái hiền lành, trung hậu, đốp chát, lạnh lùng của một thiếu phụ từng trải, nếm đủ mùi cay đắng hơn mười năm trời. Giờ đây đối diện với Hoạn Thư – chính danh thủ phạm, Kiều cũng đanh đá, sắc sảo như ai.
Đầu tiên là cách nói moi gan đối thủ:
Tiếp theo là giọng điệu đay nghiến, đốp chát của Thúy Kiều.
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Phải nói là khi cần thiết, Thúy Kiều càng tỏ rõ mình là tay cũng chẳng vừa gì. Với cái giọng đay nghiến khiến câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời này, mấy gan, càng cay nghiệt, càng oan trái. Cách nói này hoàn toàn phù hợp với con người “quỷ quái tinh ma” như Hoạn Thư “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Bề trong nham hiểm giết người không dao”.
Giọng nói của Kiều tỏ rõ nỗi căm giận cao độ cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. Thái độ của Kiều thì ta thấy rất rõ, nhưng có điều dường như Kiều đã bỏ rơi mất vai trò của người xử án và biến mình thành người đối thoại ngang hàng với kẻ thù của mình trong tư thế một người đàn bà mà chưa có cách luận tội cụ thể chỉ còn ở mức độ chung chung, hơn thiệt giữa đàn bà với nhau. Lợi dụng tình huống này mà Hoạn Thư đã tương kế tựu kế lấy chuyện đàn bà mà xoay xở. Trong phút giây đầu Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu” nhưng rồi Hoạn Thư cùng nhanh chóng trấn tĩnh “liệu điều kêu ca”.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với chi khỏi cứa đứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu.
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót đã gây việc chông gai
Còn mơ tượng bé thương bài nào chăng.
Đúng là lòi lẽ của con nhà thượng thư họ Hoạn “nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Trước tiên Hoạn Thư dựa vào tâm lí thương tình của người phụ nữ để gỡ tội: “Rằng: “Tôi chút phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Lý lẽ của Hoạn Thư thật cao siêu trong nghệ thuật bào chữa. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi là Hoạn Thư đã lôi kéo Kiều về phía mình hoặc ít ra Kiều cũng một phần nào chia sẻ một phần về “chút phận đàn bà”. Đã là đàn bà thì ai ai cũng vậy chứ chẳng riêng gì Hoạn Thư. Giảm nhẹ mọi tội lỗi xuống chuyện đàn bà, để đàn bà dễ thông cảm về việc này, nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lý chung của giới nữ: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”.
Hẳn nhiên Hoạn Thư biết giấu những gì nên giấu để chạy trốn tội lỗi của mình như những việc đánh đập, bắt cóc, hành hạ, đày đọa Kiều xuống hàng con hầu đứa ở mà chỉ kế lại “công” đã cho Kiều ra viết kình ở gác Quan Âm và cũng bắt giữ khi Kiều bỏ trốn ra khỏi nhà họ Hoạn. Đây cũng là thủ thuật ngụy biện độc đáo, và cuối cùng là Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình và chờ mong tấm lòng khoan dung độ lượng như trời bể của Kiều mà tha cho: “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Xét về mặt khôn ranh, tráo trở thì Hoạn Thư không có đối thủ. Còn với Kiều thì chẳng qua dày dặn phong sương, chịu đau chịu khổ là nhiều chứ làm gì bằng cái khôn ranh, xảo quyệt có huyết thống gia đình “lại bộ” của Hoạn Thư. Ngay cả Thúc Sinh kia thì cũng chẳng là gì đối với Hoạn Thư kia mà. Nguyên là một người có tội tày đình với Kiều mà khi nói ra thì sự việc nhẹ nhàng cốt là để cảm thông, xóa tội. Cái giọng điệu “quỷ quái tinh ma” ấy của Hoạn Thư đã làm xiêu lòng Kiều. Kiều đành phải chấp nhận Hoạn Thư là người “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Hoạn Thư đã đẩy Kiều vào chỗ khó xử, “tha ra thì cùng mấy đời – làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Thái độ khoan dung, độ lượng của Kiều thì rất rõ, cũng mới đây thôi Kiều quyết tâm trả oán để cho được hả dạ, cho vết thương lòng của Kiều được xoa dịu đi phần nào. Nhưng rồi mọi sự đã đảo lộn trong khoảnh khắc, vì Hoạn Thư đã “tri quá” thì cũng nên tha tội và Kiều đã “truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Việc xét xử Hoạn Thư có một kết cuộc thật bất ngờ, nhưng thực ra nó cũng phù hợp với logic đoạn văn, với tính cách nhân vật. Kiều tha bổng Hoạn Thư không hoàn toàn phụ thuộc vào sự “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Cách cư xử này của Kiều phần nào cũng phù hợp với quan niệm triết lí dân gian: “Đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”. Dù sao thì tên tiểu thư ấy đã bị tóm cố đến phiên tòa đã “hồn lạc phách xiêu”, đã “khấu đầu dưới trướng”, đã kêu ca xin thương tưởng, nghĩa là công lý đã phần nào được thực hiện. Việc thay đổi ngôi đã rõ ràng và Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lý để xét xử.
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán có một kết cấu phù hợp với tính cách nhân vật, với tâm lí nhân dân và tính chất lý tưởng của đạo đức. Thường tình thì con người cái oán ghi sâu hơn cái ân, trả oán được nghĩ đến trước trả ân. Đó là cảm tính, là tâm lí tự nhiên. Nhưng ở đây thì hoàn toàn ngược lại. Sự kiện đó đã phản ánh phẩm chất của Thúy Kiều – Một con người trung hậu vị tha, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình nên cái ân được trọng hơn cái oán. Và đây cũng còn là cái lẽ công bằng của nhân dân; quý trọng ân nghĩa hơn hận thù. Đây là điều mà ta cảm nhận được từ huyết thống của dân tộc ta.
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán thể hiện tài năng sáng tạo của thiên tài văn học Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Chỉ cần vài nét chấm phá của nghệ thuật miêu tả ước lệ, Thúc Sinh hiện lên là con người nhút nhát trông thật thảm thương, và đặc biệt là cách của nhân vật: Hoạn Thư khôn ngoan, sắc sảo; Thúy Kiều nhân nghĩa, bao dung, độ lượng trong việc xét xử “đền ơn trả oán”. Và qua đó, cũng đã phản ánh được khát vọng, ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.
2. Bình giảng đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán mẫu 2
Đã bước sang thế kỷ XXI nhưng Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với hàng triệu độc giả Việt Nam và thế giới. Cho đến nay Nguyễn Du vẫn là đại thi hào duy nhất của dân tộc, Thúy Kiều vẫn là kiệt tác số một của văn học Việt Nam. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, câu thơ ấy đã bộc lộ rất rõ quan điểm đề cao chữ tâm cũng như trái tim giàu lòng yêu thương của tác giả. Tấm lòng ấy phần nào được bộc lộ qua cách xử sự hết sức nhân văn trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”.
Dân gian ta có câu “Ơn đền oán trả”, quan điểm ấy đã thể hiện một thái độ rạch ròi, dứt khoát trong cách sống của người Việt. Có lẽ cách sống ấy đã có từ ngàn đời nay, được thử thách qua thời gian . Cho đến nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị, chỉ có điều ơn trả thế nào, oán báo ra sao cho có văn hóa thì thật khó. Trong đoạn trích này thông qua việc báo ân oán của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp bộc lộ văn hóa ứng xử của mình, chính ở đây tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Trước hết là báo ân:
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt như chàm đổ minh dường dẽ run.
Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tong,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thực ra đoan Thúy Kiều báo ân báo oán không chỉ gồm báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư mà còn báo ân với Giác Duyên; báo oán với:
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà.
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh…
Tuy vậy đoạn trích đã lược bớt để làm nổi bật cuộc đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư mà vẫn đảm bảo nội dung ơn đền, oán trả. Trước tiên là báo ân, âu đó cũng là việc làm hợp lẽ đời. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Hình ảnh “gươm” nói rõ quyền uy mà Kiều đang có trong tay nhờ gặp được Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”. Kiều giờ đây thật vững vàng, từng trải để nhận ra người ơn, kẻ oán, hoàn toàn khác xa với cô Kiều với thân phận “con ong, cái kiến” trước kia. Chứng kiến sự uy nghiêm đó Thúc Sinh tỏ ra sợ hãi đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đỏ” và người run như con chim dẽ. Hình ảnh tội nghiệp ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Và đó cũng là chi tiết có ảnh hưởng đến cách báo oán Hoạn Thư ở đoạn sau.
Sau hai câu đầu nói về Thúc Sinh, mười câu thơ còn lại là đoạn đối thoại của Kiều với Thúc Sinh. Qua lời nói của Kiều có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn, nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Đó là một cách so sánh rất cao, nghĩa nặng như hàng ngàn trái núi. Để xưng hô với Thúc Sinh có lúc Kiều gọi chàng là “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi; lúc lại dùng “cố nhân” mang sắc thái trang trọng, kính trọng. Có lẽ đó cũng là hai sắc thái tình cảm Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh. Với Kiều việc Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, cho nàng những ngày tháng êm ấm trong cuộc sống gia đình là cái ơn vô cùng lớn mà cô không thể nào trả hết “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa đó. Cao hơn cả vật chất chính là tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” mà cô dành cho chàng Thúc. Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa , chữ tong (theo), cố nhân, tạ lòng…điển cố Sâm Thương. Cách nói trạng trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh.
Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Bởi vì nàng hiểu nỗi đau khổ của nàng khi gắn bó với Thúc Sinh không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư “Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”. Vẫn đang nói với Thúc Sinh nhưng khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mượn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để cô chuyển sang Hoạn Thư – báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trực tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô trong nhà họ Hoạn:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Nhưng không dừng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rành rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh:
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.
Cách nói này quả là xứng với lối đối đáp “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” nếu không cái mụ nham hiểm giết người không dao ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị mụ ta hành hạ.
Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy.
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gắng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất mụ nói về tâm lý chung của phụ nữ: ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” – hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” – đó là chuyện bình thường chứ không đáng tội: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Qua miệng lưỡi biện bạch của mụ, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. sau đó như lẽ tất yếu để “lấy lòng” Thúy Kiều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều: cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lý. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” chính những lời nói đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân:
Tha ra thì cũng mang đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỷ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.
Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Hoạn Thư quả là một người “quỷ quái, tinh ma”. Tất nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không chỉ vì có khả năng “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng vị tha độ lượng của Kiều. Qua đó tấm lòng nhân ái bao dung của người con gái ấy một lần nữa lại sáng lên.
Đoạn thơ là sự phản ánh ước mơ, khát vọng công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du: người bị áp bức, đau khổ được ngồi ghế quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện triết lý sống của dân gian “ơn đền oán trả”.
3. Bình giảng đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán mẫu 3
Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du là một tuyệt phẩm, để lại nhiều tiếng vang trong nền thi ca Việt Nam. Trong đó, trích đoạn “Thúy Kiều báo ân, báo oán” là một trích đoạn hay để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong cảm xúc của người đọc về một Thúy Kiều công tư phân minh, biết phân biệt thị phi, đúng sai.
Đoạn trích này diễn ra sau khi Từ Hải cảm thương cho thân phận Kiều và đem lòng yêu mến người con gái này. Từ Hải đã chuộc Thúy Kiều ra khỏi thanh lâu và cưới nàng làm vợ. Thúy Kiều trở thành một người có quyền lực nên nàng có khả năng làm những điều mình muốn.Thúy Kiều đã tổ chức một cuộc gặp mặt giữa những người mình hàm ơn, và cả những người đã xô đẩy đời nàng tới con đường cùng để giải quyết mọi khúc mắc trong lòng.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, trích đoạn “Thúy Kiều báo ân, báo oán”thể hiện khát khao muốn đòi lại công lý của người đời cũng như của tác giả Nguyễn Du.
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Trong đoạn trích này tác giả chỉ khai thác tình tiết Thúy Kiều báo ơn với nhân vật Thúc Sinh và báo oán với nhân vật Hoạn Thư. Qua cách xử lý của Thúy Kiều ta có thể hiểu hơn và cảm nhận được tâm trạng của Thúy Kiều trong trích đoạn này:
Sau khi bị nhân vật Sở Khanh lừa tình rồi bán Kiều cho Tú Bà bắt làm gái làng chơi. Thúy Kiều may mắn gặp được Thúc Sinh, chàng đã chuộc Kiều ra khỏi chốn nhuốc nhơ và hết mực yêu thương Kiều. Nhưng đáng buồn là Thúc Sinh là người đã có gia đình và vợ anh ta Hoạn Thư là người đàn bà gian ngoan, xảo quyệt, rất có tâm địa độc ác và lắm mưu nhiều kế. Hoạn Thư tìm đủ mọi cách chia sẻ chồng mình và Kiều. Nhưng Thúy Kiều cảm thấy Thúc Sinh là người tốt đối đãi với mình thật lòng, nên nàng mang ơn chàng.
Cảnh báo ân đối với Thúc Sinh được diễn ra long trọng, Thúy Kiều cho người “mời” Thúc Sinh tới, hai người tâm sự và có gợi lại chuyện cũ.
Thúy Kiều tuy có đôi chút tủi hờn, về những ngày tháng phải làm tôi tớ ở nhà Hoạn Thư nhưng nàng cũng hiểu được rằng Thúc Sinh rất nặng tình với nàng. Anh ta đã cố hết sức mình để bảo vệ nàng nhưng tại bà vợ ghê gớm cao tay quá. Những từ “Nghĩa nặng tình non” “Cố nhân”,” Người cũ” thể hiện Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa, dù sao cũng một thời nàng làm “Vợ người ta” nên cũng có những kỷ niệm gắn bó, quên làm sao ngay được.
Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non.
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Nàng ban tặng cho Thúc Sinh rất nhiều gấm lụa và tiền bạc, điều này thể hiện rằng Thúy Kiều là người chung thủy trước sau như một. Giàu sang, phú quý cũng không vì thế mà quên tình nghĩa xưa kia
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân.
Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.
Nhưng có vẻ như Thúy Kiều vẫn còn khá giận về Hoạn Thư nàng dùng những lời lẽ sâu cay, bình dân để nói về người phụ nữ nham hiểm này:
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Từ sau lần đánh ghen Thúy Kiều thành công đẩy được nàng tránh xa cuộc đời chồng mình là Thúc Sinh, Hoạn Thư hoan hỉ lắm, vì mang trong lòng sự chiến thắng, hả hê vì chồng phải ngoan ngoãn nghe lời mình. Hoạn Thư còn cảm thấy tự phục tài trí của mình trước những sóng gió gia đình nàng đã hành xử rất thẳng tay không chút khoan nhượng với tình địch có như vậy nàng mới giữ được gia đình êm ấm.
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Ngay từ khi xuất hiện Hoạn Thư đã sử dụng ngôn ngữ chua ngoa, đúng với bản chất của mình để nói về Thúy Kiều bằng những ngôn ngữ mang tính hoạt ngôn. Thúy Kiều vẫn kiên nhẫn khuyên Hoạn Thư nên giữ chừng mực trong cách ăn nói của mình, đừng làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng.
“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.”
Hoạn Thư là người đàn bà xảo ngôn, nhưng giờ đang là thủ phạm bị báo oán, đứng trước nhiều binh lính gươm đao quanh mình, Hoạn Thư có chút run sợ. Hoạn Thư tự biết mình đã hành xử quá đáng với Thúy Kiều nên xuống nước cầu xin, dùng những lời lẽ khôn ngoan để biện hộ cho tội lỗi của mình,
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửu dứt tình chẳng theo.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Những lời xin tội của Hoạn Thư ngẫm ra thì cũng có lý, có tình, chỉ vì khen quá nên Hoạn Thư mù quáng. Trong cuộc đời này cảnh chồng chung không ai thích và chẳng ai muốn chia sẻ chồng mình với người phụ nữ khác nên hành động của Hoạn Thư cũng có thể tha thứ được. Hoạn Thư biết tội, nhận tội còn Thúy Kiều giàu lòng vị tha độ lượng nên cũng không chấp nhất nhiều. Nàng đồng ý tha cho Hoạn Thư
Diễn biến của cảnh báo ân, báo oán hết sức bất ngờ với người đọc. Lúc đầu ai cũng nghĩ Thúy Kiều sẽ phải hành hạ lại Hoạn Thư cho hả dạ những ngày nàng tủi nhục, cay đắng. Nhưng trước những lời cầu xin chí tình , chí lý của Hoạn Thư, Thúy Kiều cảm thấy siêu lòng và nàng quyết định tha bổng cho Hoạn Thư trước sự ngỡ ngàng của người đọc.
Qua đoạn trích này ta thấy Thúy Kiều là người có tấm lòng độ lượng, biết phân biệt đúng sai và không phải là người nhỏ nhen, chấp nhất. Nàng thật sự là một phụ nữ không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có trái tim nhân hậu, lương thiện, bao dung với lỗi lầm của người khác.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” thể hiện sự mong mỏi của tác giả về khát khao đòi công lý, công bằng trong xã hội cũ. Mong muốn những cái xấu bị loại trừ trả giá và những điều tốt được đền đáp là ước mong của tất cả mọi người trong xã hội.
Trên đây TaiLieuViet đã tổng hợp các bài văn mẫu Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 9 mà TaiLieuViet đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 9 và biết cách soạn bài lớp 9 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 9, đề thi học kì 2 lớp 9 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Các bài liên quan đến tác phẩm:
- Soạn Văn 9: Thúy Kiều báo ân báo oán (Trích Truyện Kiều)
- Soạn bài lớp 9: Thúy Kiều báo ân báo oán
- Phân tích đoạn trích Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Related posts
Tài liệu nổi bật
Categories
- Âm Nhạc – Mỹ Thuật Lớp 9 (17)
- Âm nhạc lớp 6 – KNTT (31)
- Âm Nhạc Lớp 7- CTST (23)
- Bài tập Toán 9 (8)
- Chưa phân loại (32)
- Chuyên đề Hóa học 12 (196)
- Chuyên đề Sinh học lớp 12 (61)
- Chuyên đề Toán 9 (50)
- Công Nghệ Lớp 10- CD (58)
- Công Nghệ Lớp 10- KNTT (52)
- Công nghệ Lớp 11 – KNTT (22)
- Công Nghệ Lớp 6 – CTST (15)
- Công Nghệ Lớp 6 – KNTT (16)
- Công Nghệ Lớp 7- CTST (18)
- Công Nghệ Lớp 7- KNTT (19)
- Công nghệ Lớp 8 – CD (21)
- Công nghệ Lớp 8 – CTST (18)
- Công nghệ Lớp 8 – KNTT (7)
- Công Nghệ Lớp 9 (114)
- Đề thi học kì 2 lớp 9 môn Văn (35)
- Địa Lí Lớp 10- CD (99)
- Địa Lí Lớp 10- KNTT (77)
- Địa lí Lớp 11 – CD (31)
- Địa lí Lớp 11 – CTST (23)
- Địa lí Lớp 11 – KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 12 (134)
- Địa lí Lớp 6 – CTST (36)
- Địa lí Lớp 6 – KNTT (30)
- Địa Lí Lớp 7- CTST (22)
- Địa Lí Lớp 7- KNTT (19)
- Địa Lí Lớp 9 (290)
- GDCD 12 (28)
- GDCD Lớp 6 – CTST (8)
- GDCD Lớp 6 – KNTT (12)
- GDCD Lớp 9 (94)
- Giải bài tập Địa Lí 12 (12)
- Giải bài tập SGK Toán 12 (8)
- Giải bài tập Sinh học 12 (45)
- Giải SBT Hóa học 12 (71)
- Giải vở BT Văn 9 (122)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- CTST (12)
- Giáo Dục Công Dân Lớp 7- KNTT (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CD (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – CTST (10)
- Giáo dục công dân Lớp 8 – KNTT (10)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- CD (12)
- Giáo Dục Quốc Phòng Lớp 10- KNTT (12)
- Hóa Học Lớp 10- CD (30)
- Hóa Học Lớp 10- KNTT (61)
- Hoá Học Lớp 11 – CD (19)
- Hoá học Lớp 11 – CTST (19)
- Hoá học Lớp 11 – KNTT (25)
- Hóa Học Lớp 12 (130)
- Hóa Học Lớp 9 (717)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 10- KNTT (52)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- CTST (40)
- Hoạt Động Trải Nghiệm Lớp 7- KNTT (16)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CD (19)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – CTST (9)
- Hoạt động trải nghiệm Lớp 8 – KNTT (18)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – CTST (46)
- Khoa học tự nhiên Lớp 6 – KNTT (57)
- Khoa Học Tự Nhiên Lớp 7- CTST (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CD (51)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – CTST (33)
- Khoa học tự nhiên Lớp 8 – KNTT (37)
- Kinh Tế & Pháp Luật Lớp 10 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CD (21)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – CTST (11)
- Kinh tế & Pháp luật Lớp 11 – KNTT (11)
- Lịch Sử Lớp 10- CD (34)
- Lịch Sử Lớp 10- CTST (20)
- Lịch Sử Lớp 10- KNTT (42)
- Lịch sử Lớp 11 – CTST (13)
- Lịch sử Lớp 11 – KNTT (13)
- Lịch sử Lớp 6 – CTST (21)
- Lịch sử Lớp 6 – KNTT (22)
- Lịch Sử Lớp 7- CTST (19)
- Lịch sử lớp 7- KNTT (18)
- Lịch Sử Lớp 9 (148)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – CTST (40)
- Lịch sử và Địa lí Lớp 8 – KNTT (33)
- Lý thuyết Địa lý 12 (4)
- Lý thuyết Lịch sử lớp 9 (33)
- Lý thuyết Ngữ Văn (83)
- Lý thuyết Ngữ Văn 12 (18)
- Lý thuyết Sinh học 12 (41)
- Mở bài – Kết bài hay (55)
- Mở bài lớp 12 hay (24)
- Nghị luận xã hội (34)
- Ngữ Văn Lớp 10- CD (113)
- Ngữ Văn Lớp 10- CTST (79)
- Ngữ Văn Lớp 10- KNTT (198)
- Ngữ Văn Lớp 11 – CD (51)
- Ngữ văn Lớp 11 – CTST (89)
- Ngữ Văn Lớp 11 – KNTT (107)
- Ngữ Văn Lớp 12 (379)
- Ngữ Văn Lớp 6 – KNTT (293)
- Ngữ Văn Lớp 7- CTST (103)
- Ngữ Văn Lớp 7- KNTT (66)
- Ngữ văn Lớp 8 – CD (48)
- Ngữ văn Lớp 8 – CTST (123)
- Ngữ văn Lớp 8 – KNTT (196)
- Ngữ Văn Lớp 9 (28)
- Phân tích các tác phẩm lớp 12 (12)
- Sinh Học Lớp 10- CD (49)
- Sinh Học Lớp 10- CTST (61)
- Sinh Học Lớp 10- KNTT (71)
- Sinh Học Lớp 11 – CD (16)
- Sinh học Lớp 11 – CTST (18)
- Sinh học Lớp 11 – KNTT (18)
- Sinh Học Lớp 9 (229)
- Soạn Anh 12 mới (86)
- Soạn văn 9 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 1 (50)
- SOẠN VĂN 9 BÀI 2 (50)
- Tác giả – Tác phẩm (41)
- Tác giả – Tác phẩm Ngữ Văn 12 (13)
- Thi THPT QG môn Địa lý (12)
- Thi THPT QG môn Sinh (8)
- Tiếng Anh Lớp 10 Friends Global (57)
- Tiếng Anh Lớp 10 Global Success (604)
- Tiếng Anh Lớp 10 iLearn Smart World (98)
- Tiếng anh Lớp 11 Friends Global (171)
- Tiếng anh Lớp 11 Global Success (368)
- Tiếng anh Lớp 11 iLearn Smart World (104)
- Tiếng Anh Lớp 12 cũ (168)
- Tiếng Anh Lớp 6 Friends Plus (114)
- Tiếng Anh Lớp 6 Global Success (174)
- Tiếng Anh Lớp 7 Friends Plus (160)
- Tiếng Anh Lớp 8 Friends plus (71)
- Tiếng anh Lớp 8 Global Success (79)
- Tiếng anh Lớp 8 iLearn Smart World (40)
- Tiếng Anh Lớp 9 Mới (211)
- Tin Học Lớp 10- CD (24)
- Tin Học Lớp 10- KNTT (33)
- Tin học Lớp 11 – KNTT (21)
- Tin Học Lớp 6 – CTST (41)
- Tin Học Lớp 6- KNTT (17)
- Tin Học Lớp 7- CTST (14)
- Tin Học Lớp 7- KNTT (16)
- Tin học Lớp 8 – CD (36)
- Tin học Lớp 8 – CTST (10)
- Tin học Lớp 8 – KNTT (5)
- Tin Học Lớp 9 (21)
- Toán 10 sách Chân trời sáng tạo (42)
- Toán Lớp 1 – KNTT (1)
- Toán Lớp 10- CD (44)
- Toán Lớp 10- CTST (39)
- Toán Lớp 10- KNTT (161)
- Toán Lớp 11 – CD (19)
- Toán Lớp 11 – CTST (44)
- Toán Lớp 11 – KNTT (46)
- Toán Lớp 12 (123)
- Toán Lớp 6 – CTST (62)
- Toán Lớp 6 – KNTT (102)
- Toán Lớp 7- CTST (52)
- Toán Lớp 7- KNTT (74)
- Toán Lớp 8 – CD (23)
- Toán Lớp 8 – CTST (21)
- Toán Lớp 8 – KNTT (34)
- Toán Lớp 9 (194)
- Tóm tắt Ngữ văn (16)
- Trắc nghiệm Ngữ Văn (75)
- Trắc nghiệm Toán 9 (61)
- Trải nghiệm hướng nghiệp Lớp 11 – KNTT (8)
- Văn mẫu 12 phân tích chuyên sâu (12)
- Văn mẫu 9 (273)
- Vật Lí Lớp 10- CD (39)
- Vật Lí Lớp 10- KNTT (61)
- Vật Lí Lớp 11 – CD (18)
- Vật lí Lớp 11 – CTST (20)
- Vật lí Lớp 11 – KNTT (26)
- Vật Lý Lớp 9 (217)