Soạn văn 11 Cánh diều Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật

Soạn bài Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Cánh diều được TaiLieuViet.vn sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học Văn 11 Cánh diều. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật

2.1. Thực hành viết theo các bước

Bài tập:

Đề 1. Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc một pho tượng mà em cho là có giá trị.

Đề 2. Bàn luận về một giá trị của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích.

Đề 3. Phân tích đoạn trích sau trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du):

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Nghĩ mình mình lại thương mình xót xa.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương.

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đài phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thân.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đài phen nét vẽ câu thơ,

Cung đàn trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

(Theo ĐÀO DUY ANH, Từ điển “Truyện Kiều”, sách đã dẫn)

Bài làm

Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Đoạn trích “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh….Ai tri âm đó mặn mà với ai?” đã kể lại những nỗi đau khổ tái tê nhất của Thúy Kiều nói riêng và của người phụ nữ dưới thời phong kiến nói chung. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá, điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.

Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.

Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.

Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.

Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.

Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.

Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.

Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.

Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.

Đoạn trích cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.

Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh – Thúy Kiều.

2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: Câu văn suy lí (lô – gích) và câu văn có hình ảnh trong văn bản nghị luận.

Bài tập: Chọn một ý của đề bài trong mục 2. “Thực hành”; từ đó, viết hai đoạn văn:

– Diễn đạt bằng các câu văn suy lí (lô gích).

– Diễn đạt bằng các câu văn có hình ảnh.

Bài làm

1. Trong số tất cả những bộ phim mà tôi từng xem, tôi thích những bộ phim có tên gọi Kingsman – Các nhiệm vụ bí mật. Nó là một bộ phim vô cùng tuyệt vời. Trong bộ phim này, bạn có thể thấy các điệp viên phiêu lưu với những pha hành động đẹp mắt để tiêu diệt các gián điệp nguy hiểm. Matthew Vaughn đã đạo diễn bộ phim dựa trên truyện tranh cùng tên của Mark Millar. Và có vẻ như đạo diễn Vaughn đã có một số ý tưởng lớn cho các phần tiếp theo. Dựa trên cuốn truyện tranh của Mark Millar, Kingsman: The Secret Service kể câu chuyện về một tổ chức gián điệp siêu bí mật đặc biệt đã tuyển một cậu bé đường phố như một viên ngọc thô đầy hứa hẹn vào các chương trình đào tạo cạnh tranh vô cùng khốc liệt để chống lại một mối đe dọa toàn cầu nổi lên từ một thiên tài công nghệ đặc biệt. Nếu bạn không muốn bỏ lỡ những giây phút gay cấn nhất và những cách giải quyết thông minh với công nghệ tối tân nhất, bạn phải bật ti vi của bạn và xem Kingsman: Các nhiệm vụ bí mật ngay bây giờ.

2. Điều tôi cảm nhận được đối với bộ phim “Triệu phú khu ổ chuột”, bộ phim gần đây đã giành được giải Oscar cho Phim hay nhất và là bộ phim đáng nhớ nhất mà tôi từng xem, không chỉ là sự ngưỡng mộ mà còn là tình yêu điên cuồng. Phim là câu chuyện về Jamal Malik, một cậu bé mồ côi 18 tuổi đến từ khu ổ chuột ở Mumbai sắp trải qua ngày trọng đại nhất trong cuộc đời. Với cả nước đang theo dõi, anh ấy chỉ còn một câu hỏi nữa là sẽ giành được số tiền đáng kinh ngạc 20 triệu rupee trên chương trình “Ai muốn trở thành triệu phú?” Của Ấn Độ. Nhưng khi buổi biểu diễn tạm nghỉ vào ban đêm, cảnh sát bắt anh ta vì nghi ngờ gian lận; Làm thế nào một đứa trẻ đường phố có thể biết nhiều như vậy? Khát vọng chứng minh mình vô tội, Jamal kể câu chuyện về cuộc sống của mình trong khu ổ chuột nơi anh và anh trai lớn lên, về những cuộc phiêu lưu cùng nhau trên đường, về những cuộc chạm trán với các băng nhóm địa phương, và về Latika, người con gái anh yêu. Sau khi Jamal kể toàn bộ câu chuyện của mình, giải thích cách mà những trải nghiệm trong cuộc sống của anh ấy tình cờ giúp anh ấy biết câu trả lời cho mỗi câu hỏi, thanh tra cảnh sát gọi lời giải thích của Jamal là “kỳ lạ hợp lý” và cho phép anh ấy quay lại chương trình để trả lời câu hỏi cuối cùng. Thật hạnh phúc, Jamal trả lời tất cả các câu hỏi trên chương trình truyền hình không phải từ kiến ​​thức sách vở – anh ấy không có – mà là kinh nghiệm sống của chính anh ấy.

—————————–

Bài tiếp theo: Soạn bài Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật Cánh diều

Trên đây TaiLieuViet.vn vừa gửi tới bạn đọc bài viết Soạn bài Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật Cánh diều. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 Cánh diều. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Toán 11 Cánh diều, Hóa học 11 Cánh diều.