Phân tích bài thơ Việt Bắc là tài liệu được đội ngũ giáo viên của TaiLieuViet biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh hiểu, nắm rõ nội dung từng phần của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của mình.

I. Dàn ý Phân tích bài thơ Việt Bắc

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông la bài thơ Việt Bắc.)

2. Thân bài

Tác giả

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại.

Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.

Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc

Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến.

Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…

Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng của dân tộc.

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

→ Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi những kỉ niệm đã qua.

Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, cách xưng hô “mình – ta” quen thuộc trong lối đối đáp dân gian thể hiện được cảm xúc dâng trào cùng nỗi lòng của người ở lại.

“Mười lăm năm” khoảng thời gian đủ dài để giữa người đi và kẻ ở thấu hiểu nhau, có với nhau những kỉ niệm đáng nhớ.

“thiết tha mặn nồng”: tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ chiến sĩ thủy chung, sâu sắc, keo sơn, bền chặt.

Hai câu thơ sau là lời nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Hình ảnh “núi,sông” là sự vận dụng tài tình của tác giả với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người ra đi về Việt Bắc – cội nguồn của Cách mạng, là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cộng khổ chiến đấu và giành chiến thắng.

→ Người ở lại mở lời gợi nhắc nhớ người ra đi về khoảng thời gian gắn bó và những kỉ niệm cùng nhau.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

→ Tiếng lòng của người của người về xuôi mang trong mình sự quyến luyến, nỗi nhớ thương, bịn rịn.

“tha thiết”: sự cảm nhận của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.

bâng khuâng”: nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn, “bồn chồn” diễn tả sự day dứt, nô nao trong lòng khiến bước đi ngập ngừng.

→ Người ra đi vô cùng lưu luyến Việt Bắc, nửa muốn đi, nửa muốn ở, bịn rịn, phân vân.

“áo chàm” la hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho những người dân Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về miền xuôi.

“phân li” tuy chia cách nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về nhau, vẫn dành trọn vẹn tình cảm cho nhau hẹn ngày gặp lại.

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”: không phải không có gì để nói với nhau mà có rất nhiều điều muốn nói vào giờ phút chia li ấy nhưng không nói thành lời. Một cái cầm tay thay cho tất cả những lời muốn nói. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng thể hiện được nỗi buồn, quyến luyến giữa người đi và kẻ ở.

→ Không gian chia tay đầy bịn rịn.

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

→ Lời của người ở lại hỏi người ra đi về những kỉ niệm trong khoảng thời gian 15 năm gắn bó.

“rừng núi nhớ ai” là biện pháp nghệ thuật nhân hóa thể hiện tình cảm của thiên nhiên Việt Bắc với người ra đi: ngay đến cả thiên nhiên cũng gắn bó và yêu thương sâu nặng với người ra đi.

“Trám bùi để rụng, măng mai để già”: thể hiện sự khó khăn một cách dí dỏm: người chiến sĩ phải hái những quả rừng để ăn thay cơm vì thiếu thốn. Khi họ ra đi, những cây trái ấy chỉ còn lại đứng bơ vơ giữa trời đất.

“hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son”: biện pháp nghệ thuật đối lập (hắt hiu – đậm đà) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc nhưng trong lòng vẫn thủy chung son sắt với cách mạng.

“Mình đi mình có nhớ mình”: người ở nhắn nhủ với người về, đến đây không còn cách xưng hô “mình – ta” nữa mà chuyển thành “mình – mình” chứng minh người dân Việt Bắc và người chiến sĩ như hòa vào làm một.

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

→ Lời đáp lại của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.

Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình với người ở lại qua từ “đinh ninh”.

Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy luôn đong đầy như nước đầu nguồn không bao giờ vơi đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Nỗi nhớ người dân Việt Bắc được ví như nhớ người yêu, luôn thường trực trong trái tim bất kể là ngày hay đêm.

Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dâm và thiên nhiên Việt Bắc: những đêm trăng, nương rấy tràn ngập ánh nắng, những bản làng tràn ngập trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây.

Nỗi nhớ ấy được khắc họa chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

→ Người ra đi bày tỏ nỗi lòng, nỗi nhớ của mình.

Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn kết, đồng lòng chiến đấu.

Nỗi nhớ dâng trào, người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan, vui vẻ hát vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng.

→ Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai.

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

10 câu thơ là bức tranh tứ bình (xuân, hạ, thu, đông) của Việt Bắc.

2 câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh, hòa vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của Việt Bắc thêm hài hòa màu sắc.

Mùa xuân: “mơ nở trắng rừng” mùa xuân Việt Bắc đặc trăng là màu trắng tinh khiết của của rừng hoa mơ, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón.

Mùa hạ: “ve kêu rừng phách đổ vàng” tiếng ve quen thuộc của mùa hè giữa rừng hoa phách vàng gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng ấm áp.

Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hòa bình” ánh tắng Việt Bắc mùa thu vô cùng yên bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của người dân dạt dào tình cảm.

→ Hình ảnh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người tạo nên bức tranh Việt Bắc vô cùng xinh đẹp khiến người ta nhớ mãi.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Người chiến sĩ nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ.

Cả “rừng cây núi đá” và con người cùng đồng lòng đánh giặc.

Nhân hóa: “núi giăng, rừng che” thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu diệt chúng.

→ Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc.

“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”

Câu hỏi tu từ cũng là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về những địa danh chiến đấu (Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà) ở Việt Bắc.

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá”: diễn tả ngày Việt Bắc ra trận tràn đầy khí thế, tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới những bàn chân của những người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường.

Từ láy “điệp điệp, trùng trùng”: miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh thần của hàng nghìn con người ra trận.

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”: tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc có thể làm bất cứ điều gì lớn lao.

Hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định niềm tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi sáng.

Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt trận trên cả nước (Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng).

→ Khẳng định vai trò của Việt Bắc: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”

Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu:

Những ngày nắng vàng rực rỡ tung bay lá cờ đỏ sao vàng.

Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho những chiến dịch.

→ Khí thế chiến đấu hừng hực của tiền tuyến và hậu phương, thể hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không chỉ của những người ở chiến khu mà là của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Khẳng định vai trò của Việt Bắc: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.

Là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên và địa danh nơi đây.

→ Tình cảm thiết tha, gắn bó sâu nặng.

Tổng kết về nội dung, nghệ thuật

Nghệ thuật

Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:

Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống.

Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.

Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu:

Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,…

Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình, ta, lời lẽ giàu tình cảm.

Nội dung:

Ca ngợi tình cảm sắc son, chung thủy của quân (người ra đi) và dân ta (người ở lại).

Thể hiện lòng yêu nước của lớp lớp thế hệ con người.

Nhắc nhở người đời sau biết trân trọng nền độc lập này.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của bài thơ: bài thơ đóng góp một phần to lớn vào thành công của nên văn học Việt Nam và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

II. Bài mẫu Phân tích bài thơ Việt Bắc

1. Phân tích bài thơ Việt Bắc – Mẫu 1

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về thơ Tố Hữu: “Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Quả thực vậy, Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời. Điều này được thể hiện rất rõ qua “Việt Bắc”.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của quân và dân ta, Hiệp định Giơ – ne – vơ về Đông Dương được kí kết. Dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới hòa bình và tự do. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng.

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” – người cán bộ về xuôi, “ta” – người dân Việt Bắc. “Mình” và “ta” đã trải qua những ngày tháng không thể nào quên: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu ngàn đời của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!

Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.

Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.

Tiếp nối cho mạch cảm xúc nhớ thương tha thiết, người ở lại gợi nhắc những kỉ niệm cũ của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian khổ:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Câu hỏi một lần nữa vang lên “Mình đi, có nhớ những ngày” nhưng thực chất lại dùng để khơi gợi kỉ niệm, bày tỏ sự gắn bó giữa người đi và người ở. Tất cả những kỉ niệm đồng hiện, vẫn còn vẹn nguyên như vừa mới hôm qua. Mưa, suối, mây mù đều là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên nơi ấy hùng vĩ, nên thơ mà cũng rất hoang vu, dữ dội. Mảnh đất có mưa rừng xối xả, suối lũ cuốn xiết ấy đã “che bộ đội”, “vây quân thù” trong suốt những năm kháng chiến gian lao.

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Người ở lại còn nhắc đến kí ức những ngày ở chiến khu. Đời sống tại chiến khu Việt Bắc vô cùng thiếu thốn, họ phải ăn cơm chấm muối cùng trám bùi và măng mai. Những lớp lá lau xám biến thành mái nhà đơn sơ, tạm bợ. Từ láy “hắt hiu” được đảo lên đầu câu giúp gợi tả chân thực, xúc động hình ảnh những mái tranh bạc màu qua mưa nắng. Đáng quý hơn cả chính là con người Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ với những người chiến sĩ, một lòng trung thành với cách mạng. Tố Hữu đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “Miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng vai”, “Hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”. Dù cuộc sống sinh hoạt cực khổ trăm bề nhưng vì “mối thù nặng vai” với thực dân mà con người sẵn sàng hi sinh để đất nước được độc lập. Dẫu những mái tranh nghèo có trở nên hắt hiu vì sương gió thì tấm lòng của con người với cách mạng,quê hương vẫn luôn thắm đỏ như màu cờ Tổ quốc. Giờ đây, khi người chiến sĩ về xuôi, những tháng này ấy đã trở thành một góc kỉ niệm không thể nào phai nhạt. Nỗi nhớ khiến lòng người ở lại nặng trĩu. Trám bùi biết để cho ai? Măng mai giờ già cỗi vì không còn người hái?

Bốn câu thơ cuối đoạn là nỗi nhớ về quá trình kháng chiến gắn với những mốc lịch sử trọng đại của dân tộc:

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Vào năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm đất nước ta. Đến năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, phát động cao trào kháng Nhật cứu quốc. Trải qua biết bao vất vả, tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại cây đa Tân Trào. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1945, quốc dân đại hội đã phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng 8 thành công, lịch sử dân tộc bước sang trang mới vẻ vang. Có thể thấy, tất cả những mốc thời gian và địa điểm được nhắc đến trong đoạn thơ đều là những mốc son chói lọi với toàn dân tộc. Những câu thơ như một thước phim gợi lại quá trình chiến đấu của quân và dân Việt Nam rất đáng tự hào. Nhà thơ đảo ngữ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” có dụng ý nhấn mạnh vào những địa danh quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Điệp từ “có nhớ” ngân vang, kết hợp với cách xưng hô “mình” – “ta” mang đến cảm xúc tự hào xen lẫn xúc động cho cả đoạn thơ.

Sau khi lắng nghe nỗi lòng, những kỉ niệm sống dậy trong tâm trí người dân thì đến đây, người cán bộ cách mạng mới cất tiếng:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

“Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Âm hưởng trữ tình của những câu ca dao lan tỏa khắp lời thơ. Cặp từ xưng hô được hoán đổi vị trí rất nhuần nhị ở câu thơ đầu. Người chiến sĩ khảng khái khẳng định: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Dù “trước” hay “sau”, quá khứ hay tương lai thì tấm lòng ân tình mà người chiến sĩ dành cho con người, thiên nhiên Việt Bắ cũng chẳng khi nào thay đổi. Con người vẫn một lòng một dạ hướng về nhau như dòng nước chảy ra biển lớn vẫn nhớ về nguồn cội. Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ tấm lòng của cán bộ cách mạng. Cặp từ chỉ quan hệ tăng tiến “bao nhiêu” – “bấy nhiêu” vừa khẳng định tình cảm của con người, vừa gợi nhớ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu khiến ta nhớ đến những câu ca dao xưa:

Muối mặn ba năm còn mặn

Gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lá lay

Sắt son nguyệt giữ lòng này thuỷ chung.

Nỗi nhớ trong lòng người chiến sĩ đằm sâu, da diết biết mấy! Người chiến sĩ cũng bày tỏ sự lưu luyến với cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được cụ thể hóa, so sánh với nỗi nhớ người yêu hết sức nồng nàn, cháy bỏng. Nhớ người yêu xuất hiện trong những câu ca dao xưa bao giờ cũng là nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải nhất. Tố Hữu lấy nỗi nhớ ấy để diễn tả tự nhiên, chân thực, sinh động nỗi nhớ Việt Bắc. Trong nỗi nhớ ấy, ta tìm thấy ánh trăng yên ả thanh bình nhô lên sau dãy núi, thấy lưng nương rực rỡ trong ráng chiều, thấy cả rừng nứa bờ tre thân thương hồn hậu. Không gian Việt Bắc bao la, khoang đạt, thơ mộng, hiền hòa, đẹp tuyệt mĩ như được bàn tay danh họa vẽ nên. Phải là con người gắn bó, hòa mình với cảnh vật nơi đây thì mới có thể viết nên những câu thơ tinh tế đến vậy. Bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến những địa danh trong khu căn cứ địa như “Ngòi Thia”, “sông Ðáy”, “suối Lê”. Trung tâm của nỗi nhớ tập trung vào hình ảnh “người thương đi về”. Trạng từ chỉ thời gian “Sớm khuya” và hình ảnh giản dị “bếp lửa” cho ta thấy phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Cách gọi “người thương” sao mà thân thương, trân quý đến thế! Điệp từ “nhớ”, “nhớ từng” lặp lại nhiều lần tựa như điệp khúc về nỗi nhớ cứ ngân lên không dứt trong tâm hồn con người.

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Những câu thơ tiếp theo vẫn là tiếng nói giãi bày của người đi. Những rung động nghĩa tình được thể hiện qua câu thơ: “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”. Thành ngữ “Đắng cay ngọt bùi” được vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào câu thơ, bao quát những khó khăn gian khổ và cả niềm vui, hạnh phúc của con người. Câu thơ được chia thành hai vế đối xứng với nhịp 4/4, hài hòa giữa hình thức biểu đạt và nội dung ý nghĩa. Dù “đây” hay “đó”, dù gian nan hay yên ấm thì tấm lòng người về xuôi vẫn mãi gắn kết keo sơn với người ở lại. Tình cảm khăng khít ấy được bồi đắp qua từng ngày “chia củ sắn lùi”, “Bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Hai câu thơ trở thành biểu tượng cho sự đồng cam cộng khổ và nghĩa tình nhân dân trong kháng chiến. Câu thơ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” vừa diễn tả sự khắc nghiệt của tự nhiên vừa làm nổi bật sự chăm chỉ, tảo tần của những người phụ nữ Việt Bắc. Mẹ địu con lên rẫy như cõng cả mặt trời nắng bỏng trên lưng. Mẹ nuôi con, mẹ nuôi bộ đội, mẹ góp sức của mình vào kháng chiến, thật đáng cảm phục!

Con người và thiên nhiên Việt Bắc là thế, mạnh mẽ mà nồng ấm nghĩa tình. Chính vì vậy, tác giả đã nhìn thấy ở họ niềm lạc quan, yêu đời, tin vào tương lai:

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Điệp ngữ “Nhớ sao” lặp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ thường trực, nỗi bồi hồi xao xuyến. Nhà thơ nhớ đến những lớp bình dân học vụ ngân vang tiếng đọc bài của đồng bào Việt Bắc, những buổi liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay giữa đồng khuya dưới ánh sáng của đuốc. Tiếng hát say đời, ham lao động vang khắp núi đèo. Đặc biệt, nhà thơ còn lồng vào đó âm thanh của chày giã gạo ngoài suối xa vọng lại vào đêm. Tố Hữu đã thật sự nắm bắt được cái thần, cái hồn của thiên nhiên Việt Bắc.

Đoạn thơ tiếp theo là chứa đầy màu sắc về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Trong đó, hai câu thơ đầu có ý nghĩa khái quát cảm xúc của toàn đoạn:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Nhà thơ vẫn sử dụng cách xưng hô “Ta” – “mình” thân thuộc, gần gũi. Hai chữ “Ta về” được ngắt riêng như một nốt nhạc quãng ngắt lưu luyến, ngập ngừng trong bản tình ca cách mạng. Câu hỏi tu từ “Ta về, mình có nhớ ta” mang âm hưởng trữ tình ngọt ngào của ca dao, dân ca. Câu hỏi ấy không chỉ hướng về phía người ở lại mà còn hướng về chính người chiến sĩ. Người cán bộ cách mạng tự khẳng định tình cảm ân nghĩa thủy chung của lòng mình với thiên nhiên, con người Việt Bắc. Vậy người ra đi nhớ điều gì? Người ra đi nhớ “những hoa cùng người”. “hoa” ở đây có nghĩa là thiên nhiên đẹp đẽ, tươi sáng, hùng vĩ của Việt Bắc. Hòa với nét đẹp của hoa là vẻ đẹp của “người”. Con người và thiên nhiên Việt Bắc hòa quyện, gắn bó khăng khít, làm nên cái hồn cho mảnh đất này.

Những câu thơ sau là bức tranh tứ bình đầy ấn tượng:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đầy sức sống, đẹp đẽ, tươi sáng đến lạ thường. Cảnh rừng Việt Bắc trong mùa đông vẫn thật xanh tươi, căng tràn sức sống: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Trên cái nền xanh thẳm của núi rừng là sắc đỏ rực rỡ tựa muôn ngàn đốm lửa của những bông hoa chuối. Thiên nhiên đang tự mình thắp lên những ngọn lửa để sưởi ấm trong trời đông rét ngọt. Mùa đông trong thơ Tố Hữu không những không hề héo úa, lụi tàn mà còn lấp lánh ước mơ, hi vọng. Đến mùa xuân, bao nhiêu mầm sống được ấp ủ bấy lâu đã thỏa sức bung nở. Khung cảnh như thay màu áo mới. Màu trắng tinh khôi, trong trẻo của hoa mơ bao phủ khắp đất trời. Hai chữ “trắng rừng” cho thấy sức sống âm thầm mà mãnh liệt vô cùng. Dường như mải đắm mình trong bạt ngàn hoa trắng, ta giật mình ngỡ ngàng khi hạ đã về tự bao giờ. Câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi lên bản tình ca mùa hè sôi nổi, rạo rực. Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc. Chữ “đổ” là nhãn tự của cả câu thơ, diễn tả sự giao hòa của tạo vật. Ve kêu đến đâu, rừng phách ngả vàng đến đó. Sắc màu thời gian như đổ xuống cảnh vật, đẹp đẽ và diệu kì. Đến mùa thu, điều tác giả nhớ nhất chính là “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng mơ màng, dịu dàng chiếu rọi xuống cảnh vật. Mọi ngóc ngách trong rừng đều chảy tràn ánh trăng, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Thiên nhiên Việt Bắc đáng yêu, bình yên quá đỗi khiến người ta say đắm không thể nào quên.

Đi liền với nỗi nhớ thiên nhiên, tác giả còn nhớ về con người Việt Bắc rất mực thân thương. Họ hiện lên trong tư thế hài hòa, làm chủ tự nhiên. Câu thơ: “Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” mang màu sắc “rất Việt Bắc” (Xuân Diệu). Nhân dân Việt Bắc thường gài chiếc dao vào thắt lưng khi đi làm nương rẫy. Trên tầm cao của đèo, ánh nắng chiếu vào dao tạo nên phản quang lấp lánh. Con người không nhỏ nhoi, đơn độc trước cái cao, dốc của đèo mà trái lại, càng mạnh mẽ và hào hùng. Trong khung cảnh mùa xuân, tác giả miêu tả cụ thể về người đan nón. Động từ “chuốt” có nghĩa là trau chuốt, làm cho bóng, cho mượt. Chữ “từng” gợi tả sự tỉ mỉ, cần cù, khéo léo, tài hoa của con người Việt Bắc khi lao động. Thiên nhiên có hoa mơ nở trắng rừng, con người lại có chiếc nón trắng thể hiện tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương, đất nước. Người dân gửi cả tấm lòng mình vào công việc thủ công, sáng tạo ra những vật phẩm mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến khi hạ về, tác giả phát hiện ra giữa sắc vàng óng ả của rừng phách là “cô em gái hái măng một mình”. Sự hiệp vần “hái “ với “gái” khiến câu thơ đậm tính nhạc hấp dẫn. Người con gái Việt Bắc thật trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Dẫu cô gái đang đi hái măng một mình, làm công việc lao động vất vả giữa rừng nhưng chẳng hề lẻ loi, cô độc. Con người làm chủ tự nhiên và cuộc đời, bộc lộ rõ nét hồn nhiên, đáng yêu đến lạ. Cuối cùng, tác giả nhớ đến tiếng hát “ân tình thủy chung” dưới đêm trăng trong mùa thu. Đó không chỉ là tiếng hát trong trẻo vang lên trong đêm thanh mà còn là tiếng lòng ân nghĩa vẹn tròn giữa “ta” và “mình”. Tiếng hát khép lại đoạn thơ nhưng tình người thì mãi còn vang vọng.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ về những ngày đầu kháng chiến, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và những chiến công của quân dân ta. Hai câu thơ đầu đậm chất tự sự, thuật tả lại thực tế kháng chiến.Những từ “lùng”, “đến” cho thấy sự dã man, tàn bạo của giặc, chúng quyết tâm tiêu diệt những người chiến sĩ yêu nước của ta. Quân đội ta đã dựa vào địa thế hiểm yếu của núi rừng Việt Bắc để chống giặc. Cách diễn đạt “ta cùng đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng giữa con người và thiên nhiên. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” chính là như thế! Tinh thần đoàn kết “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” trở thành yếu tố quyết định làm nên sự toàn thắng của đất nước ta. Khổ thơ không chỉ vừa đậm chất hiện thực lại giàu tính trữ tình, ca ngợi tinh thần thép, ý chí kiên cường của con người Việt Nam. Có sự che chở của nhân dân và núi rừng Việt Bắc, quân ta liên tiếp gặt hái được thắng lợi:

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà

Điệp từ “nhớ” được lặp lại năm lần trong câu thơ, cho thấy nỗi nhớ bao trùm lên cả đèo, sông, phố. Nhà thơ Tố Hữu nhớ từ những trận đánh đầu tiên của quân ta như phủ Thông, đèo Giàng, nhớ cả sông Lô trong chiến thắng Thu – Đông năm 1947 đến nhận đánh nơi phố Ràng năm 1948 đánh dấu sự lớn mạnh của quân đội ta. Những địa danh được liệt kê liên tiếp khiến khổ thơ như một thước phim tư liệu lịch sử.

Tác giả nhớ về những trận chiến oanh liệt của quân và dân chính là khẳng định tấm lòng gắn bó son sắt với nhân dân Việt Bắc. Con người Việt Bắc tài hoa, anh dũng đã hòa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thủy chung với cách mạng, làm nên sức mạnh to lớn:

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Nhà thơ phác họa khung cảnh toàn quân ra trận với khí thế hào hùng, sôi sục. Giữa không gian rộng lớn và thời gian đằng đẵng, quân đội ta nổi bật với những bước chân “rầm rập” rung chuyển cả đất trời. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa hình ảnh đoàn quân đông đảo, không ngừng tiến tới để đối mặt với quân thù. Dù vật chất còn thiếu thốn, các chiến sĩ chỉ có “mũ nan” nhưng nào có hề gì bởi ánh sao ngời sáng trên mũ đang soi đường cho bộ đội ta đi tới. Ánh sao ấy còn tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, tấm lòng yêu chuộng của con người Việt Nam. Hình ảnh cường điệu “bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh phi thường của quân đội ta. Sức mạnh ấy phá vỡ cái thăm thẳm lạnh lẽo của màn sương đêm, mở lối cho ánh đèn xe kéo pháo. Cuối cùng, tin vui chiến thắng đã về đến “trăm miền”. Tác giả liệt kê hàng loạt địa danh để thiể hiện niềm hân hoan thắng lợi đang rạo rực trên mọi miền Tổ quốc.

Tác phẩm là cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân và cán bộ cách mạng, cho thấy nỗi nhớ thường tha thiết, nặng tình ân nghĩa của những con người cùng nhau vào sinh ra tử trong kháng chiến. “Việt Bắc” đã khắc họa nét đẹp phong phú của thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc. Từ đó, tác phẩm còn ngợi ca vẻ đẹp mạnh mẽ, cần cù, tài hoa, tấm lòng kiên trung, tràn đầy tình yêu thương đất nước và con người của nhân dân nơi đây. Đây quả thực là khúc ca về cách mạng, về con người kháng chiến. Nhà thơ đã kết cấu bài thơ theo lối đối đáp của ca dao, ngôn ngữ thơ dân dã, giọng thơ mang âm hưởng ngọt ngào cùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa giàu tính biểu tượng.

“Việt Bắc” thực sự là “những vần thơ tươi xanh”, “những vần thơ bỏng cháy” được viết nên từ tài năng và tâm huyết của nhà văn. Tác phẩm là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca thời kì chống Pháp nói chung.

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc – Mẫu 2

Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…

Phân tích bài thơ Việt Bắc hay và Chất

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi – kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình – ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.

Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác, chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm – vật dụng quen thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau:

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Trong không gian tĩnh lặng của buổi chia tay ấy, người ở lại mở lời, hỏi người ra đi về những kỉ niệm trong khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Bao nhiêu suy tư, trăn trở đến đây đã bật ra thành câu hỏi. Đó là những lời nhắc nhớ về những ngày “mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù”, về “miếng cơm chấm muối”… tuy khó khăn gian khổ nhưng vẫn luôn vui vẻ, đoàn kết một lòng một dạ đấu tranh. Khi người chiến sĩ về miền xuôi, không chỉ con người nơi đây hụt hẫng mà ngay cả thiên nhiên cũng bơ vơ (trám bùi để rụng, măng mai để già). bên cạnh việc nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, người ở lại cũng nhắc người ra đi nhớ về chính mình: “mình đi có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” và về những kỉ niệm ở nơi đây: “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”. Đến đây không còn cách xưng hô mình – ta nữa mà chuyển sang xưng hô mình – mình. Người ra đi và người ở lại như hòa vào làm một.

Trước những câu hỏi, lời nhắc nhớ của người ở lại cuối cùng, người ra đi cũng lên tiếng:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình với người ở lại qua từ “đinh ninh”. Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy luôn đong đầy như nước đầu nguồn không bao giờ vơi đi.

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Nỗi nhớ người dân Việt Bắc của người ra đi được ví như nhớ người yêu, luôn thường trực trong trái tim bất kể là ngày hay đêm. Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dân và thiên nhiên Việt Bắc: những đêm trăng, nương rẫy tràn ngập ánh nắng, những bản làng ngập trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây. Nỗi nhớ ấy được khắc họa chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn kết, đồng lòng chiến đấu. Nỗi nhớ dâng trào hơn khi người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan hát vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai trong lòng người chiến sĩ.

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Có thể nói, đây là những vần thơ, ý thơ đẹp đẽ nhất mà người ra đi dành cho con người và thiên nhiên Việt Bắc. Hai câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nhớ về thiên nhiên và con người nơi đây. Mở đầu bức tranh tứ bình của Việt Bắc là hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh thêm rực rỡ màu sắc, hòa vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của nơi đây không chỉ ngập tràn màu sắc mà còn vô cùng ấm áp. Mùa xuân được khắc họa với đặc trưng “mơ nở trắng rừng” với một màu trắng tinh khiết, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón. Khép lại bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè với tiếng “ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng rực rỡ. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình” vô cùng yên bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của người dân dạt dào tình cảm. Bức tranh tứ bình không chỉ giúp ta tưởng tượng ra thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn giúp ta hiểu hơn về con người Việt Bắc cũng như thêm yêu mến nơi này. Sở dĩ mở đầu bức tranh là mùa đông lạnh lẽo và kết thúc bằng mùa thu hòa bình vì người chiến sĩ chia tay đồng bào Việt Bắc quay về thủ đô vào mùa đông nên nỗi nhớ được bắt nguồn từ đó. Không những vậy, nó còn mang dụng ý: mùa đông là khi đất nước ta chìm trong kiếp lầm than, nô lệ khi bị xâm lược, mùa xuân là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc cách mạng, mùa hạ là khi cuộc chiến sôi nổi diễn ra và mùa thu là mùa ta giành lại độc lập.

Ngoài bức tranh tứ bình, người ra đi còn nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Kỉ niệm về những ngày chiến đấu hiện về trong kí ức của người ở lại. Cả “rừng cây núi đá” và con người đồng lòng đánh giặc. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa: “núi giăng, rừng che” đã làm cho thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu diệt chúng. Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc và mong đợi ngày kháng chiến thắng lợi thể hiện quyết tâm cao độ của đầu não chiến khu này.

“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”

Câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ không?” thể hiện tâm tư, tình cảm của người ra đi và lời khẳng định “Ta về ta nhớ…” cho thấy dù bất kì người nào khác rời chiến khu Việt Bắc với tâm trạng như thế nào không biết nhưng người chiến sĩ thì sẽ luôn nhớ về con người, thiên nhiên và những địa danh nơi đây (Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà) gắn liền với những kỉ niệm chiến đấu và chiến thắng của họ.

Không chỉ nhớ về những địa danh của chiến khu, người ra đi còn nhớ về những ngày chiến đấu và chiến thắng:

“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Những ngày hành quân của ta vô cùng khí thế và những khí thế đó được thể hiện qua động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá” tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới những bàn chân trong cuộc hành quân hùng hậu từ khắp các ngả đường. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh thần của hàng nghìn con người ra trận. Những bước đi của họ có thể làm cho “muôn tàn lửa bay” chính tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc này đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giúp quân và dân ta làm nên những điều lớn lao. Bên cạnh đó, hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định niềm tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi sáng.

Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt trận trên cả nước, từ Bắc vào Nam: Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tất cả như vỡ òa, bao nhiêu công sức, bao nhiêu khổ cực mà ta phải trải qua đã mang về thành quả vô cùng xứng đáng – độc lập tự do. Đến đây chúng ta có thể khẳng định vai trò của Việt Bắc – là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.

Sau những hồi tưởng về cuộc chiến đấu và thắng lợi, người ra đi nhớ ngược về những ngày chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đó:

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”

Giai đoạn chuẩn bị này đã cho thấy khí thế hừng hực của quân và dân ta. Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu: đó là những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược, điều quân cho chiến dịch; những khi nhận được mệnh lệnh di chuyển để thực hiện nhiệm vụ,… cả tiền tuyến và hậu phương rộn ràng khí thế. Người chiến sĩ ở mặt trận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu còn người ở hậu phương ra sức tăng gia sản xuất cung cấp lương thực cho chiến khu. Tất cả thể hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.

Bên cạnh những kỉ niệm của người ra đi và kẻ ở lại, người ra đi còn nhắn nhủ con người về sự quan trọng của chiến khu Việt Bắc:

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”

Tác giả khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.

Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên, địa danh nơi đây.

Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình – ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

3. Phân tích Việt Bắc ngắn gọn

Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.

Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn song hành cùng những chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian lao.

Trước hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình” vô cùng khéo léo. Nó đã thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy của cán bộ và nhân dân. Ở đây, Tố Hữu đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy”. Đó là quãng thời gian rất dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân và nhân dân ta với thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng chính là quãng thời gian mà tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.

Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Những lời tâm tình, thủ thỉ của người ở lại đã khiến cho người về xuôi không đành lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy giờ đây khiến những thương nhớ và kỉ niệm như chực trào, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng ấy được tác giả gói gọn trong hai từ “bâng khuâng”. Nó như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó mà có thể diễn tả bằng lời một cách dễ dàng.

Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

Phân tích Việt Bắc mới biết khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất :

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Điệp từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tác phẩm. Nó đã khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt, tràn lên mặt chữ.

Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà hơn hết, ông còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, thủ thỉ tâm tình nữa mà trở nên hào hùng, vang dội vô cùng khi nói đến cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận chiến ấy xảy ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại từng dấu ấn nơi đây. Và không chỉ con người đồng lòng, mà thiên nhiên dường như cũng đang sát cánh bên người chiến sĩ để “vây quân thù”.

Qua những vần thơ này, dường như hào khí Đông A lại trỗi dậy, mãnh liệt và tràn đầy niềm tự hào. Để đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc lại.

Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng các hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện được một chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó của quân và dân – yếu tố quan trọng mang tới chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, thuỷ chung với lý tưởng cao đẹp.

III. Khái quát về tác giả Tố Hữu

1. Con đường thơ của Tố Hữu

Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh ấy đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã sáng tác được nhiều tập thơ, bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp của mình, trong đó phải kể đến: Từ ấy (bao gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng), tập thơ Việt Bắc,…

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, cách mạng bước vào một giai đoạn mới với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất đất nước. Thơ Tố Hữu vẫn bám sát những bước đi và nhiệm vụ của cách mạng, của đời sống chính trị trên đất nước ta.

Thơ Tố Hữu những năm chống Mĩ cứu nước mang đậm tính chính luận và cảm hứng sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng hùng ca, tập trung thể hiện hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam.

2. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị: Tố Hữu là một chiến sĩ – thi sĩ. Với ông, làm thơ trước hết là để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho lí tưởng của Đảng. Mọi sự kiện, vấn đề lớn của đời sống cách mạng, lí tưởng chính trị, những tình cảm chính trị thông qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm hứng nghệ thuật thực sự.

Nội dung trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu thường tìm đến và gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng.

Một nét đặc sắc của thơ Tố Hữu là có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết, kết tục truyền thống tốt đẹp của thơ ca Việt Nam qua nhiều thời đại; gắn bó với vận mệnh của đất nước, phục vụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do của dân tộc.

IV. Khái quát chung về bài thơ Việt Bắc

1. Vị trí đoạn trích

Đoạn trích thuộc phần 1 của tác phẩm, tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến

2. Bố cục (2 phần)

Phần 1 (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi

Phần 2 (còn lại): Lời của người ra đi với nỗi nhớ Việt Bắc

3. Nội dung, nghệ thuật bài thơ Việt Bắc

a. Nội dung

Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc…

Việt Bắc là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.

b. Nghệ thuật

Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc.

Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống: Cấu tứ bài thơ là cấu tứ trong ca dao với hai nhân vật trữ tình ta và mình.

Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, cân xứng, kết hợp hài hòa, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.

Ngôn ngữ bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh.

Sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của văn học dân gian: mình về, có nhớ, nhớ sao…

Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,…

Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình, ta, lời lẽ giàu tình cảm.

——————————–

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Bộ đề thi thử THPT Quốc Gia đạt 8 điểm môn Văn năm 2022
  • 20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
  • Cách làm bài văn nghị luận xã hội (Dạng tổng hợp)
  • Mở bài và kết bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Trên đây TaiLieuViet đã giới thiệu tới các em Phân tích bài thơ Việt Bắc. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Bài viết đã cho chúng ta thấy được dàn ý và các bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, TaiLieuViet xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà TaiLieuViet tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.